Vai trò to lớn của văn học dân gian đối với văn học viết nói chung

“Ở Việt Nam, văn học dân gian có vị trí và vai trò rất quan trọng. Trong hàng nghìn năm Bắc thuộc và ở các thời kì dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ cập, văn học dân gian đã đóng góp to lớn trong việc gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tài hoa của văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển của văn học viết từ nội dung đến hình thức”. Từ thuở nghìn năm Bắc thuộc, văn học dân gian đã có một vị thế quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động khi chữ viết “chưa có hoặc chưa phổ cập”, văn học dân gian đã “gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc”, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân”. Bởi có một vị trí như thế nên văn học dân gian có vai trò như “người diễn tả hộ” tình cảm lẫn tư tưởng của nhân dân lao động .

 

ppt24 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 529 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Vai trò to lớn của văn học dân gian đối với văn học viết nói chung, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn học dân gian là những sáng tác tập thể và truyền miệng thể hiện tình cảm của nhân dân lao động.Văn học viết là sáng tác của trí thức được ghi lại bằng chữ viết, mang đậm dấu ấn sáng tạo cá nhân.VAI TRỊ CỦA VĂN HỌC DÂN GIANĐỐI VỚI VĂN HỌC VIẾTChuyên đề 4:Vai trị to lớn của văn học dân gian “Ở Việt Nam, văn học dân gian có vị trí và vai trò rất quan trọng. Trong hàng nghìn năm Bắc thuộc và ở các thời kì dân tộc chưa có chữ viết hoặc chữ viết chưa phổ cập, văn học dân gian đã đóng góp to lớn trong việc gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, tài hoa của văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển của văn học viết từ nội dung đến hình thức”. Từ thuở nghìn năm Bắc thuộc, văn học dân gian đã có một vị thế quan trọng trong đời sống tinh thần của quần chúng lao động khi chữ viết “chưa có hoặc chưa phổ cập”, văn học dân gian đã “gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc”, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân”. Bởi có một vị trí như thế nên văn học dân gian có vai trò như “người diễn tả hộ” tình cảm lẫn tư tưởng của nhân dân lao động .Tương truyền, trước khi diễn ra cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Trưng Trắc đã đọc thề, về sau được viết thành thơ: “Một xin rửa sạch nước thù Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng Ba kẻo oan ức lòng chồng Bốn xin vẹn sở công lênh này” (Thiên Nam Ngữ lục, áng sử ca dân gian TK VII)Bốn câu thơ trên được trích từ “Tiên Nam ngữ lục, áng sử ca dân gian thế kỉ XVII” đã thể hiện được mục đích của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là “đền nợ nước, trả thù nhà”, quét sạch bọn xâm lược Hán ra khỏi nước Âu Lạc và để nhớ về lời thề nguyện của bà, nhân dân đã gói gọn trong bốn câu thơ. Chả thế mà đến Lê Văn Hư, nhà sử học thế kỉ XIII, cũng phải khen rằng “Trưng Trắc, Trưng Nhị là phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành ở tỉnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp Bá vương”! Nhận xét về ảnh hưởng to lớn của văn học dân gian đối với văn học viết Việt Nam, giáo trình Văn học dân gian nhận định:“ Văn học dân gian là cội nguồn, là bầu sữa mẹ nuơi dưỡng nền văn học dân tộc Việt Nam. Nhiều thể loại văn học viết được xây dựng và phát triển dựa trên sự kế thừa các thể loại văn học dân gian. Nhiều tác phẩm , nhiều hình tượng do văn học dân gian tạo nên là nguồn cảm hứng , là thi liệu , văn liệu của văn học viết. Nhiều nhà thơ , nhà văn lớn của dân tộc ( Nguyễn Trãi , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Phan Bội Châu , Hồ Chí Minh,.) đã tiếp thu cĩ kết quả văn học dân gian để sáng tạo nên những tác phẩm văn chương ưu tú” . Đĩ là một nhận định xác đáng thể hiện rõ mối quan hệ máu thịt gắn bĩ giữa văn học dân gian và văn học viết trong suốt tiến trình phát triển của văn học dân tộc Việt Nam từ thời trung đại sang thời hiện đại. ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIANVề nội dung và nghệ thuật Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trị, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm. Thời chữ HánTrong một thời kì lịch sử khá dài, chữ Hán được coi là một thứ chữ cĩ tính quan phương, “ chính thức” thì việc học tập, vận dụng ca dao tục ngữ, thành ngữ dân gian vào các sáng tác đặc biệt là các sáng tác bằng tiếng nĩi dân tộc khơng chỉ cĩ giá trị về phương diện nghệ thuật ngơn từ mà cịn là một hành vi văn hố thể hiện sâu sắc lịng yêu nước và tự hào dân tộc. Nhà thơ dân tộc lớn đầu tiên của nước ta, Nguyễn Trãi, đã nêu một tấm gương sáng. Bên cạnh tập thơ chữ Hán ( Ức Trai thi tập) , ơng đã để lại cho đời một tập thơ nơm bề thế là Quốc âm thi tập. Trong tập thơ quý này, chúng ta thấy thi hào đã vận dụng thuần thục lời ăn tiếng nĩi dân gian, từ thành ngữ, tục ngữ, ca dao- dân ca, đến các hình ảnh hình tượng trong văn học dân gian. Ca dao cĩ câu:  Cịn duyên như tượng tơ vàng Hết duyên như ổ ong tàn gặp mưa Và “ Cịn duyên đĩng cửa kén chồng Hết duyên cất quán ngồi trơng bộ hành Trong Quốc âm thi tập cĩ câu:  “La ỷ dập dìu hàng chợ họp Cửa nhà bịn rịn tổ ong tàn” Ca dao cĩ câu:  “ Thật vàng chẳng phải thau đâu Đừng đem thử lửa mà đau lịng vàng” Quốc âm thi tập cĩ câu :  Ngọc lành nào cĩ tơ vết Vàng thật âu chi lửa thiêu” Trong nhiều bài thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng khá nhiều tục ngữ, thành ngữ. Ở bầu thì dáng ắt nên trịn Xấu tốt đều thì lắp khuơn Lân cận nhà giàu , no bữa cốm  Bạn bè kẻ trộm phải đau địn Chơi cùng đứa dại nên bầy dại Kết với người khơn học nết khơn Ở đằng thấp thì nên đằng thấp Đen gần mực , đỏ gần son. Đọc bài thơ này chúng ta dễ dàng nhận thấy Nguyễn Trãi đã vận dụng sáng tạo nhiều tục ngữ:  - Ở bầu thì trịn , ở ống thì dài - Ở gần nhà giàu đau răng ăn cốm  - Ở gần kẻ trộm ốm lưng chịu địn - Gần mực thì đen gần đèn thì sáng Chính vì thế , những kinh nghiệm được Nguyễn Trãi nêu ra trong bài thơ rất gần gũi với dân gian, dễ được nhân dân tiếp nhận và qua đĩ phản ánh cốt cách thân dân của nhà yêu nước vĩ đại xứng danh “ Kinh bang hoa quốc cổ vơ tiền” này. Thời chữ Nôm Trong số những nhà thơ lớn của thời kì tồn thịnh của văn học chữ Nơm (nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX) , Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương đã sử dụng rất sáng tạo ngơn ngữ và hình tượng nghệ thuật văn học dân gian và ngược lại nhân dân cũng mượn nhiều câu trong Truyện Kiều kiệt tác của Nguyễn Du và trong thơ Hồ Xuân Hương, hoặc để nguyên hoặc sửa đi ít nhiều, để đối đáp , gửi gắm tâm sự của mình Thương nhớ người xa vắng, ca dao cĩ câu: “ Ai đi muơn dặm non sơng/ Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy” .Nĩi về tâm sự kẻ ở người đi, nỗi chia li ray rứt, ca dao cĩ câu: “ Vầng trăng ai xẻ làm đơi/ Đường trần ai vẽ ngược xuơi hỡi chàng”, Truyện Kiều cũng cĩ những câu: “ Sầu đơng càng lắc càng đầy / Ba thu dọn lại một ngày dài ghê” và “ Vầng trăng ai xẻ làm đơi / Nửa in gối chiến nửa soi dặm trường”,..Khảo sát hệ thống từ ngữ Truyện Kiều và Văn chiêu hồn chúng ta thấy Nguyễn Du đã học tập vận dụng rất nhiều từ ngữ, thành ngữ, tục ngữ dân gian.Mặt khác Nguyễn Du học tập cách tổ chức ngơn ngữ trong thành ngữ và tục ngữ để tạo ra những kết cấu ngơn ngữ như những thành ngữ , tục ngữ. Cĩ những trường hợp thật khĩ phân biệt đâu là thành ngữ , tục ngữ Nguyễn Du học của quần chúng, đâu là đơn vị từ ngữ do Nguyễn Du tạo ra: - Ra tuồng mèo mả gà đồng Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào - Bề ngồi thơn thớt nĩi cười  Mà trong nham hiểm giết người khơng dao - Ở đây tai vách mạch dừng Gặp ai người cũ cũng đừng nhìn chi Thời kì văn học hiện đại Trong văn học hiện đại, các tác giả Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận , Chế Lan Viên,cũng luơn khẳng định vai trị to lớn của văn học dân gian đối với các sáng tác văn học để văn học thực sự là văn học hướng về quảng đại quần chúng cơng nơng binh. Trong văn thơ và trong lời nĩi, Chủ tịch Hồ Chí Minh luơn dùng những cách nĩi quen thuộc gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân như gan vàng dạ sắt, anh em ruột thịt, sum họp một nhà, chân đồng vai sắt, chung lưng đấu cật đúng chỗ cần thiết. Nhiều trường hợp Người hốn cải cho phù hợp với văn cảnh, với nội dung mới nhưng ý vị thành ngữ , tục ngữ vẫn rõ rệt. Trong Di chúc , Người đã để lại một câu thơ khắc sâu vào tâm khảm mọi người: “ Cịn non , cịn nước , cịn người  Thắng giặc Mĩ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay” Hình ảnh non nước là một hình ảnh thấm đượm màu sắc dân tộc. Ca dao nĩi nhiều đến non nước, thơ cổ nĩi chung, Truyện Kiều nĩi riêng cũng dùng nhiều hình ảnh này. Nĩi đến non nước, nước non là để gợi tình cảm yêu quê hương đất nước. Tố Hữu , cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng Việt Nam đã vận dụng rất thành cơng Văn học dân gian Việt Nam trong các bài thơ của mình khiến cho thơ ơng dễ đi vào trái tim quần chúng cách mạng. Nhạc điệu của nhiều bài thơ Tố Hữu là nhịp điệu của những điệu hị xứ Huế, của những câu hát đối đáp giao duyên truyền thống. Bài thơ Việt Bắc , kết tinh nghệ thuật thơ Tố Hữu trong giai đoạn chín năm kháng chiến chống Pháp đựoc cấu tứ theo kiểu hát đối đáp giao duyên với nhưng đại từ “mình”, “ ta” ngọt ngào tha thiết: “ Mình về mình cĩ nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng? Mình về mình nhớ ta khơng Nhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn? Tố Hữu sử dụng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ dân gian trong sáng tác của mình Dù ai nĩi ngả , nĩi nghiêng Lịng ta vẫn vững như kiềng ba chân Dù ai rào giậu ngăn sân Lịng ta vẫn vững là dân Cụ Hồ Tóm LạiVăn học dân gian là một bộ phận văn học đặc trưng, tiêu biểu, là bông hoa nghệ thuật sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Văn học dân gian không chỉ góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc riêng của dân tộc mà còn tô điểm thêm cho bức tranh chung của văn chương các dân tộc trên thế giới, cho đến ngày hôm nay tuy văn học dân gian không còn giữ vai trò chính thốngnữa mà thay vào đó là văn học viết với những tác giả chuyên nghiệp nhưng bộ phận văn học ấy không hề bị mai một mà nó đã nhập tâm vào văn học viết. Có thể nói văn học viết cũng chính là hiện thân của văn học dân gian Việt Nam. Vì thế khi tinh hoa của 2 bộ phận văn học này kết tinh lại ở những cá tính sáng tạo, trong điều kiện lịch sử nhất định thì đất nước lại thấy sự xuất hiện của những thiên tài văn học như : Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân HươngVăn học dân gian không phát triển một cách độc lập riêng rẽ mà có ảnh hưởng rất lớn với văn học viết Việt Nam.Phần thuyết trình đến đây là hếtCám ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe

File đính kèm:

  • pptChuyen de Anh huong cua van hoc dan gian doi voivan hoc viet.ppt