Sổ tay văn học 10 - Phổ thông trung học

Bài số 1. Nhìn chung nền văn học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử

 Phần thứ nhất. VĂN HỌC DÂN GIAN

Bài số 2. Đại cương về văn học dân gian

Bài số 3. Sử thi

Bài số 4. Đẻ đất đẻ nước

Bài số 5. Bài ca chàng Đam Săn

Bài số 6. Chử Đồng Tử

Bài số 7. Trầu cau

Bài số 8. Tiễn dặn người yêu

Bài số 9. Vượt biển

Bài số 10. Bài ca người thợ mộc

Bàisố11. Tát nước đầu đình

 

doc75 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 407 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sổ tay văn học 10 - Phổ thông trung học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỔ TAY VĂN HỌC 10 - PHỔ THÔNG TRUNG HỌC Bài số 1. Nhìn chung nền văn học Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử  Phần thứ nhất. VĂN HỌC DÂN GIAN Bài số 2. Đại cương về văn học dân gian Bài số 3. Sử thi Bài số 4. Đẻ đất đẻ nước Bài số 5. Bài ca chàng Đam Săn Bài số 6. Chử Đồng Tử Bài số 7. Trầu cau Bài số 8. Tiễn dặn người yêu Bài số 9. Vượt biển Bài số 10. Bài ca người thợ mộc Bàisố11. Tát nước đầu đình Phần thứ hai. VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XIX Bài số 12. Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX Bài số 13. Ngôn hoài Bài số 14. Tụng giá hoàn kinh sư Bài số 15. Thuật Hoài Bài số 16. Bạch Đằng giang phú Bài số 17. Thơ văn Nguyễn Trãi Bài số 18. Bình Ngô đại cáo Bài số 19. Bảo kích cảnh giới - 43 Bài số 20. Cây chuối Bài số 21. Dục Thúy sơn Bài số 22. Ngụ hứng ở quán Trung Tân Bài số 23. Trông bốn bề Bài số 24. Nỗi nhớ nhung sầu muộn của người chinh phụ Bài số 25. Mời trầu Bài số 26. Tự tình Bài số 27. Cảnh chùa chiền Bài số 28. Nguyễn Du và Truyện Kiều Bài số 29. Trao duyên Bài số 30. Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều Bài số 31. Kim Trọng trở lại vườn Thúy Bài số 32. Anh hùng tiếng đã gọi rằng Bài số 33. Độc Tiểu Thanh kí Bài số 34. Thăng Long thành hoài cổ Phần thứ ba. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI - LÝ LUẬN VĂN HỌC Bài số 35. Sử thi Hi Lạp Bài số 36. Uylitxơ trở về Bài số 37. Sử thi Ấn Độ Bài số 38. Rama buộc tội Bài số 39. Thơ Đường Bài số 40. Hoàng Hạc lâu Tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng Bài số 41. Thu hứng Bài số 42. Hoàng lạc Lâu Bài số 43. Tì Bà Hành Bài số 44. Tam quốc diễn nghĩa Bài số 45. Người lái buôn thành Vơnidơ Bài số 46. Văn học là gì Bài số 47. Nhà văn và quá trình sáng tạo Nhìn chung nền văn học VN qua các thế kỷ: Các thành phần cấu tạo của nền văn học Việt Nam     1. Nền Văn học dân gian ra đời từ thời viễn cổ và tiếp tục phát triển về sau này. Tính nhân dân, tính dân tộc của nó từ nội dung tới hình thức có tác dụng sâu sắc đến sự hình thành và phát triển của nền văn học viết.     2. Văn học viết ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10 (?) gồm có 3 bộ phận: Văn học viết bằng chữ Hán, Văn học viết bằng chữ Nôm và Văn học viết bằng chữ quốc ngữ. Ba bộ phận văn học ấy nối tiếp, kế thừa và phát triển cho thấy tinh thần sáng tạo, ý trí tự lập tự cường và sức mạnh Việt Nam vô cùng to lớn.     3. Văn học dân gian là cội nguồn của nền văn học dân tộc. Hai thành phần Văn học viết và Văn học dân gian luôn luôn tác động qua lại, hội tụ và kết tinh ở những thiên tài văn chương như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, v.v... Các thời kỳ phát triển      Có thể chia làm 3 thời kỳ lớn:     1. Thời kỳ từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX: Thơ văn Hán - Nôm.     2. Thời kỳ từ thế kỷ thứ XX đến năm 1945: Thơ văn Hán Nôm - thơ văn quốc ngữ.     3. Thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay: thơ văn quốc ngữ mang nội dung cách mạng, kháng chiến, yêu nước và tiến bộ. Mấy nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam     1. Truyền thống yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc     2. Tình nhân ái.      3. Thơ ca có một truyền thống lâu đời phát triển mạnh. Có nhiều kiệt tác.Văn xuôi phát triển chậm: từ 1930 trở đi mới phát triển nhanh vọt, tiến lên hiện đại hoá. Phần I – Văn học dân gian 1, Đại cương về văn học dân gian Khái niệm văn học dân gian.     - Văn học dân gian là một thành tố của văn hoá dân gian, tức là phôncơlo (trí tuệ nhân dân).     - Văn học dân gian còn gọi là văn học truyền miệng hoặc văn học bình dân.     - Văn học dân gian là những sáng tác tập thể truyền miệng của nhân dân, ra đời từ thời viễn cổ, phát triển qua các thời kì lịch sử, đến cả hiện nay và mai sau. Văn học dân gian có những đặc trưng riêng so với văn học viết; nó cùng với văn học viết hợp thành nền văn học dân tộc. Các thể loại văn học dân gian     1. Thơ ca dân gian: tục ngữ, câu đố, ca dao, hò, vè, truyện thơ.     2. Truyện dân gian: thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, truyện ngụ ngôn.     3. Sân khấu dân gian: chèo, tuồng đồ. Những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian     1. Tính tập thể (trong sáng tạo, trong lưu truyền, trong sử dụng và cảm thụ...)     2. Tính truyền miệng.     3. Gắn với sinh hoạt xã hội (đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động...) Giá trị và vai trò của văn học dân gian trong nền văn học dân tộc     1. Văn học dân gian là kho báu về trí tuệ, tâm hồn và thẩm mĩ cao đẹp của nhân dân.     2. Văn học dân gian là ngọn nguồn, là cơ sở kết tinh của văn học dân tộc. Sử thi Định nghĩa     Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xuôi) có quy mô hoành tráng, miêu tả và ca ngợi những thành tựu có tính toàn dân và có ý nghĩ trọng đại (sống còn, vinh nhục) đối với cộng đồng, ca ngợi những anh hùng bộ tộc mang sức mạnh thần kỳ, tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của bộ tộc.     Sử thi cổ đại là sản phẩm tinh thần - lễ nghi, nghệ thuật của xã hội thị tộc-bộ lạc, một thể loại một đi không trở lại, phản ánh những kì tích của cộng đồng trong công cuộc xây dựng sự phát triển, chinh phục tự nhiên và chiến đấu chiến thắng mọi kẻ thù của bộ tộc. Những bộ sử thi của Việt Nam và thế giới     1. Việt Nam.     "Đẻ đất đẻ nước" của người Mường, bằng thơ. Bản sưu tầm ở Hoà Bình dài 3887 câu thơ; bản sưu tầm ở Thanh Hóa dài 8503 câu (?)     - "Bài ca Đan Sẵn" của người Ê đê.     - "Xinh Nhã" của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên, chủ yếu của người Ê đê.     - “Y Ban” của nhiều bộ tộc ở Tây Nguyên.     - "Đăm Di" của người Ê đê và Giarai.     - "Xinh Chơ Niếp" của người Ê đê.     - v.v...     2. Thế giới:     - "Ramayana" của Ấn Độ gồm có 24.000 câu thơ đôi.     - "Mahabharata" của Ấn Độ dài 110.000 câu thơ đôi.     - "Ôđixê" của Hi Lạp dài 12.110 câu thơ, tác giả Hômerơ.     - "Iliat" của Hi Lạp, dài 15.683 câu thơ, tác giả Hômerơ.     - v.v... Những ý kiến về sử thi     1. ..."Thời đại thịnh vượng nhất của giai đoạn cao trong thời đại dã man được diễn tả trong những bài thơ của Hômerơ, nhất là tập Iliat.     ... Bản anh hùng ca của Hômerơ và toàn bộ thần thoại - đó là những di sản chủ yếu mà người Hi Lạp đã đem được từ thời đại dã man sang thời đại văn minh...” (Ăng ghen)     2. ..."Chỉ thông qua sức mạnh phi thường của cộng đồng, người ta mới có thể giải thích được vẻ đẹp tuyệt vời và sâu sắc của thần thoạivà anh hùng ca, một vẻ đẹp xây dựng trên sự hoà hợp triệt để giữa nội dung và hình thức..." (Gorki)     3. "Sử thi anh hùng bao hàm một bức tranh hoàn chỉnh của cuộc sống nhân dân dưới hình thức kể truyện anh hùng về quá khứ. Thế giới sử thi lý tưởng và nhân vật dũng sĩ trong sự thống nhất hài hoà của chúng - đó là những nhân tố chủ yếu của một nội dung sử thi anh hùng". (Mêlêtinxki) Đẻ đất, đẻ nước Một vài nét về tác phẩm     1. Quy mô     Sử thi "Đẻ đất đẻ nước" có quy mô hoành tráng. Bản sưu tầm ở Thanh Hoá dài tới 8503 câu thơ.  Người Mường ở Nghĩ Lộ, Hoà Bình và miền tây Thanh Hoá còn truyền tụng "Đẻ đất đẻ nước". Các thầy mo (thầy cúng) vẫn đọc "Đẻ đất đẻ nước" trong các tang lễ.     2. Tóm tắt     Thuở ấy, khi đất trời còn hỗn mang, bỗng "mưa dầm mưa dãi" nước ngập mênh mông, 50 ngày sau mới rút hết. Tự nhiên mọc lên một cây xanh có 90 cành, có một cành cao trọc trời, biến thành ông Thu Tha, Bà Thu Thiên. Hai Thần truyền lệnh làm ra Đất, Trời và Vạn vật. Sau đó, nắng dữ dội suốt 12 năm liền, mặt đất xơ xác. Thần Pồng Pêu ao ước một trận mưa lớn. Tức thì mưa to gió lớn suốt chín,  mười ngày đêm; hạt mưa to bằng quả bưởi, nước lại ngập bao la. Bẩy tháng sau nước rút cạn, có một cây si khổng lồ mọc lên tua tủa 1919 cành. Trời sai con Sâu Gang khoét ruỗng ruột cây si. Cây đổ, mỗi cành hoá ra một bản mường: ..."Một cành đổ về đất Sạp Nên mường Sạp. Một cành đổ về đất Giạp Nên mường Giạp. Một cành ngã về đất Bi, đất Lỗ. Nên Mường Bi, Mường Lỗ..."     Có một cành si lại hoá ra Mụ Dạ Dần; mụ đẻ ra hai cái trứng kì dị, nở ra cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ. Vừa mới nở, cun Bướm Bạc đã ăn hết 9 chõ cơm; cun Bướm Bờ ăn hết 5 chõ xôi: "Cun Bướm Bạc và cun Bướm Bờ Lớn cao hơn đụn chính, đụn mười. Tiếng cười như tiếng trống cái Tiếng nói như tiếng sấm vang Xương vai dài tám mươi lóng Xương sống dài bẩy mươi gang..."     Vua trời cho mười nàng tiên xuống trần gian du ngoạn. Hai cun cưõi ngựa bạc, vác ná đi sãn lợn rừng, gặp các nàng tiên "lưng ong, tóc mượt". Hai nàng tiên quên đường về trời. Họ nên vợ nên chồng . Sau 12 năm 9 tháng, hai nàng tiên sinh được một bầy con mà "Trống chim Tùng, mái chim tót là con út con yêu". Đôi chim trống mái sau "9 ngày, 9 đêm, 9 tháng" để ra 1919 chiếc trứng nở ra Thần Chớp, Thần Mây, nở ra chuột, lợn, voi, thú dữ... Đôi chim đẻ ra lứa thứ hai "được một trứng đen đen bốn khúc - Trứng bầu dục 4 khuôn - Mặt vuông mặt tròn chín cạnh -Rành rành mười hai quai"... Mụ Dạ Dần sai chim chiền chiện ấp, trứng nở ra một bầy con, mỗi đứa nói một thứ tiếng: tiếng Lào, tiếng Thái, tiếng Kinh, tiếng Mọn, tiếng Mường, tiếng Mán, tiếng Mèo Trứng cũng nở ra anh em nhà lang: ông Dịt Dáng, ông Lang Tà Cái, ông Lang Cun Cần, bố Bướm Khang, ông Sang Si, nàng Vạ Hai Chiếng.... Loài người có từ đấy. Bộ tộc Mường có từ đấy.     Thần Cuộng Minh Vàng Rậm, nàng ả Sấm Trời "đúc 9 mặt trời, đúc được 12 mặt trăng" làm chói chang trời đất. Họ nhà Ngao "thần nỏ" dùng cung tên bắn rụng hết, chỉ để lại một mặt trăng, một mặt trời. Rồi ông Thu Tha, bà Thu Thiên làm ra năm, tháng, ngày, đêm, bốn mùa cho người theo đó làm ăn sinh sống.     Người Mường chưa có thủ lĩnh.Mường nước mời ông Dịt Dáng, rồi mời Lang Tá Cái ra "cầm binh cầm mường”. Cả hai đều bất tài bị "ma đón đường, thuồng luồng xanh","rồng vàng ngăn ngõ". Mường nước phải đi mời Lang Cun Cần ra tiễu trừ ma quỷ, thú dữ. "Ma chạy từng bầy trốn vào trong núi Ma rồng sơ Lang Cun Cần trời Thuồng luồng sợ Lang Cun Cần chặt Ma Trời, ma Đất cùng chạy nhanh nhanh"...     Lang Cun Cần trở thành thủ lĩnh từ đó. Rùa Thần giúp lang dựng nhà cửa to đẹp. Tà Cắm Cọt (thần lửa) cho Cun Cần lửa. Nàng tiên Mái Lúa (thần Trồng Trọt) giúp lang nhiều hạt giống để sản xuất. Lang Khấm Dậm bày cho cách ủ men chế rượu cần. Mụ La, mụ Húng, (thần chăn nuôi) dạy cho mường nước nuôi gia súc, gia cầm. Mường nước có trâu bò cày ruộng làm nương.     Hai chương 17, 18 gồm 1263 câu thơ kể chuyện Lang Cun Cần lấy vợ. Lang lấy em gái nàng Vạ Hai Chiếng, bị làng bản coi khinh, bị vua Trời sai cun Sấm nàng Sét (thiên lôi) xuống trừng phạt, may mà thoát chết. Lang Cun Cần sai bỏ nàng Vạ Hai Chiếng vào rừng sâu. Lang sai người đem lễ vật đi khắp nơi tìm "gái đẹp con dòng". Cun Cần lấy được nhiều vợ: có vợ là con gái vua Trời, có vợ là thần tiên, có vợ là con gái mường nước. Lang Cun Cần có một bầy con: "Nàng Vậm Đầu Đất Đẻ được cun Tồi, cái Sang Nàng Vậm Đầu Nước Đẻ ra cun Tàng, cái Lớn, Nàng Ả Sao, Ả Sáng,                  Ả Rạng nhà ông vua Trời Đẻ được Lang Cun Khượng Ả Gái nuôi trong mường Đẻ ra chàng Toóng Ín..."     Con cái trưởng thành. Lang Cun Cần chia đất cho các con. Anh em bất hoà. Toóng Ín vu cho Lang Cun Khương làm giặc để âm mưu cướp đất của anh. Lang Cun Khương chạy lên vua Trời, nhờ ông ngoại che chở. Trời giáng hoạ, gây ra lũ lụt, ép anh em nhà Lang phải giết Toóng Ín. Từ đó, Lang Cun Khương trở nên một thủ lĩnh giàu có, đầy quyền uy.     Tậm Tạch là tôi tớ của lang đã tìm được cây  Chu Đồng (cây thần) lấy được "bông thau, quả thiếc" mà trở nên giàu có. Anh em Lang Cun Khương lập mưu chuốc rượu cho Tậm Tạch say, lừa lấy được "bông thau, quả thiếc". Lang đưa cả mường nước đi chặt cây Chu Đồng kéo về làm nhà chu.Tậm Tạch phản loại bị lang giết chết. Rùa Thần lại giúp lang làm nhà chu "sáng cả mường, kinh kì kẻ chợ", "rạng trời rạng đất". Lang giết 10 voi ngà, 30 trâu mộng, 9 bò, 100 gà sao, nấu 1000 vò rượu, để ăn mừng. Lang Cun Cần ban thưởng cho các con nhiều vàng bạc quý giá.     Con của Tậm Tạch lại đốt nhà chu để báo thù cho cha. Hắn lại bị lang giết chết, máu hắn hoá thành con Moong khổng lồ, tàn phá bản mường. Lang Cun Cần đưa tất cả mường nước đi săn Moong, vô cùng nguy hiểm mới giết được. Moong được ăn thịt; người Lào, người Thái, người Tày, người Mường nhanh chân lấy được da Moong vằn vện mà học được cách thêu thùa, dệt vải rất đẹp. Người Kinh đến sau lấy được thịt và mỡ Moong, từ đấy biết nấu nhiều món ăn ngon.Người "Mường ngoài" (Hoà Bình) đến sau cùng, chẳng được thứ gì , chỉ nhìn thấy đống tro thui Moong, chẳng may, gió thổi tro bay dính vào môi, nên môi người "Mường ngoài" bị đen là vì thế!     Tai hoạ còn nhiều. Chó ăn phải phổi Moong mà thành chó điên. Chó điên bị giết, xác bị quẳng xuống sông, cá ăn phải biến thành Cá điên. Cá điên bị lang bắt giết, bầy quạ ăn phải hoá ra Quạ điên. Mường nước săn nùng mãi, cuối cùng Lang Cun Khương bắn trúng Qụa, cả bày hoảng sợ bay trồn vào rừng sâu. Nhưng rồi hồn Toóng Ín lại biến thành Ma Ruộng đưa bầy Rắn  "mỏ vàng, mỏ đỏ" đánh nhau với anh em Lang Cun Khương. Quân hai bên đánh nhau suốt đêm ngày, kịch chiến giữa ruộng, quần nhau trên đồi gianh, đuổi nhau trong rừng sến, hỗn chiến tại bến sông Rồng,... Toóng Ín thất thế phải chạy xuống thuỷ phủ của Long Vương ẩn náu và xin cầu viện. Long Vương biến Toóng Ín thành Ma May, Ma Lang. Hắn đưa binh mã gồm thuồng luồng, ba ba, cá ngao... dâng nước làm lũ lụt, dìm chết được Lang Cun Tàng, Lang Cun Khương cùng mường nước nổi chiêng cồng đem giáo mác, cung nỏ, lưới... vây các ngả sông đón đánh. Giặc Ma May, Ma Lang bị đại bại, bỏ lại trên bãi chiến trường bao xác loài thuỷ quái, làm thổi cả bản mường.     Từ đó, mường nước yên vui, hoà bình thịnh vượng. Lang Cun Cần đã sống được trên vạn năm. Trẻ già, trai gái mường nước nô nức sắm áo quần, lo kiệu lo ngai, rước vua về, "Đồng chì tam quan kẻ chợ" Giảng văn: Đẻ nước     1. Xuất xứ     Đoạn thơ này trích gần trọn chương "Đẻ nước" trong sử thi "Đẻ đất đẻ nước"; từ câu 268-334 theo sưu tầm của Hoàng Anh Nhân (Thanh Hoá)     2. Ý chủ đạo     Đoạn thơ nói về trận đại hồng thuỷ thời tiền sử - buổi đầu khai thiên lập địa theo cách cảm nhận riêng của người Mường xa xưa.     3. Ông Pồng Pêu     Là Thần Mưa theo cách gọi của ngưòi Mường.      Thiên tai kéo dài "Hạn 9 tháng biền biệt - nắng 12 năm xác đất" làm cho muôn loài đau khổ: "cây cau úa cả tàu - rừng vàu không mọc măng", làm cho "chó mực, chó ngao lè lưỡi, rái cá phải chạy lên đồi"... Ông Pồng Pêu lúc đó đang ngồi "đan chài" và "đan lưới" trong nhà, bình dị như con người lao động. Ông ngước nhìn khắp trời đất, rồi gọi gió, gọi "mưa cho mát lòng các loài thú hiền thú dữ, cây lau cây bái". Tức thì trời mưa to. Pồng Pêu là biểu tượng cho ý nguyện của muôn loài muôn vật và con người vì sự sống bắt diệt trên trái đất.     4. Cảnh trời mưa     Mưa miêu tả dữ dội chẳng khác nào trận đại hồng thuỷ trong Kinh thánh nói đến. Mây vàng mây đen đùn lên che kín cả bầu trời, gió ùn ùn thổi điên cuồng. Cun Sấm nàng Sét cùng ra oai: "Lanh lảnh cun Sấm xuống thét Lăm lăm nàng sét xuống đánh".     Mưa kéo dài "mưa 9 đêm, mưa liền 9 ngày". Hạt mưa " to bằng hột cà" về sau "to bằng quả bưởi". Nước ngập mênh mông. Mưa để "rước nàng ngâu về trời" để "đưa chàng ngâu qua sông Ngân". Mưa "ngập cây", "ngập bụi", mãi "bốn tháng nước rút - bẩy tháng nước xuôi". Mưa đem đến sự sống cho đàn cua đá, đàn cá, đàn ba ba, đàn cá chuối, đàn nòng nọc, đàn cá cơm. Sau khi "đẻ nước" trời "đẻ đất". Có đất, đất đang xơ xác, Có nước, nước ùn đục ngầu             Đó vẫn là cảnh thiên địa xơ khai.         Biện pháp lặp và liệt kê được nhà thơ dân gian xưa của tộc Mường, vận dụng tạo nên ấn tượng "đẻ nước". Thần mưa, thần Sấm, thần Sét, Chức nữ, Ngưu lang...được nói đến hồn nhiên đầy ý vị. Đoạn sử thi đã giải thích hiện tượng mưa gió, lũ lụt qua cảm quan nghệ thuật “vạn vật hữu linh" của người Mường thời viễn cổ. Bài ca chàng đam Săn Xuất xứ     "Bài ca chàng Đam Săn" là sử thi anh hùng của tộc người Ê đê ở Tây Nguyên. Tác phẩm được nhiều người sưu tầm tuy lời kể có khác nhau ít nhiều, nhưng cốt truyện đều giống nhau. Tóm tắt     Theo tục "nối dây", Đam Săn phải lấy hai chị em Hơ Nhí và Hơ Bhí làm vợ. Anh đã chống lại, nhưng bị trời lấy ống điếu gõ vào đầu 7 lần "Đam Săn chết lịm, rồi Trời cho sống lại". Cuối cùng Đam Săn phải làm theo lời Trời. Đam Săn trở thành tù trưởng giàu mạnh, danh tiếng vang lừng rừng núi, "đầu đội khăn kép, vai mang túi da". Đam Săn đã cùng bộ tộc đánh thắng hai tù trưởng hùng mạnh khác là Mơtao Grứ và Mơtao Mơxây, bắt được nhiều nô lệ, thu được nhiều tài sản quý báu. Ngang tàn coi thường thần linh, Đam Săn chặt cây thần. Chặt mãi cây mới đổ. Cây đổ quật chết cả hai nàng Hơ Nhí và Hơ Bhí. Anh vác rìu đi lên trời, cầu xin Trời cứu sống vợ anh. Đang sống trong yên vui giàu có, Đam Săn lại lên đường đi bắt Nữ thần Mặt Trời để có "hai vợ lẽ... vợ thật đẹp”. Cuộc cầu hôn thất bại, anh trở lại quê nhà, bị chết lún giữa rừng của bà Sun Y Rít. Đam Săn chết, cháu Đam Săn ra đời, lại theo tục "nối dây" đi tiếp hành trình của cậu chàng, dấn thân vào cuộc chiến đấu mới. Giảng văn     Đi bắt nữ thâng Mặt Trời     1. Xuất xứ và ý tưởng chủ đạo     Đoạn trích "Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời" nằm trong chương 7 "Bài ca chàng Đam Săn" Đoạn sử thi này nói lên khát vọng và dũng khí, lòng quả cảm của người anh hùng Đam Săn được bộ tộc ngưỡng mộ.     2. Hình ảnh dũng sĩ Đam Săn     - Khát vọng phi thường. Là một tù trưởng giàu có và hùng mạnh: "Trăm chiêng núp anh đã có. Trăm chiêng bằng anh đã có. Trăm con voi anh đã có...". Nhiều nồi đồng, lợn dê đầy sân. "Tiếng tăm anh vang đến thần núi", ai cũng phải khen anh là "gan dạ, anh dũng", không hề lùi trước bất cứ địch thủ nào! Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời vì nàng là "người đẹp nhất", "bắp chân nàng tròn, váy nàng đẹp tuyệt vời". Đi bắt nữ thần Mặt Trời mới thành một tù trưởng "hết sức giàu mạnh... trên đời không ai bì kịp"... Khi đến vương quốc của nữ thần Mặt Trời, Đam Săn đã nói với người đẹp: "Tôi muốn có hai vợ lẽ, tôi muốn có một người vợ thật đẹp và tôi hứa với nàng tôi sẽ mang nàng xuống trần lập một gia đình chung với Hơ Nhí và Hơ Bhí". Người tù trưởng phải có khát vọng phi thường như vậy mới tiêu biểu cho phẩm chất cao đẹp của cộng đồng bộ tộc xa xưa.     - Dũng khí quả cảm vô song.     Lên đường với con tuấn mã, tay cầm lao, gươm dắt thắt lưng, khoác áo màu đen màu trắng, mang theo bùa ngải..."sẽ giúp tôi thắng!". Đừng đi đầy tê giác, hùm thiêng, cọp dữ, đã cắm chông, đã cắm bẫy, nước đầy đỉa, cây đầy sên, bò cạp giữa đường, rết trên ngọn cây... xương người và xương trâu đầy rừng!... Nhưng quyết tâm của Đam Săn không hề nao núng: "Mặc kệ! để tôi kiếm một nối đi. Tôi sẽ tới chỗ tôi muốn! Gặp hùm tôi sẽ giết hùm".     Đam Săn ra đi từ lúc gà gáy. Chàng vượt qua rừng âm u, núi rậm chân và tay bị cỏ tranh, mây "cắt nát". Đến ranh giới giữa trời và đất, Đam Săn đã "chặt một sườn núi ném xuống bùn làm con đường" để vượt qua và tiến lên. Chàng dũng sĩ vô cùng ngạc nhiên trước cái nhà của nữ thần: cầu thang nhà là chiếc cầu vồng, cối và chày giã gạo đều bằng vàng, sân nhà đầy voi, trong nhà đầy chiêng núp. Tôi tớ trai và gái đi lại đông như mây. Đam Săn thì được người nhà của nữ thần ngắm nghía như nhìn một "thần linh danh tiếng". Còn nữ thần Mặt Trời thay hai lần váy mới "nhấp nháy như chớp sáng". Tóc chải bóng buông dài. Dáng đi thướt tha "như chim diều bay, như phượng hoàng liệng, như nước chảy êm đềm". Cổ nàng "đẹp như cổ con công". Nàng là dòng dõi nhà "Trời và Đất". Với tưởng tượng kì diệu, tác giả sử thi đã miêu tả hành trình của Đam Săn và hình ảnh nữ thần Mặt Trời để ca ngợi dũng khí, lòng quả cảm và khát vọng về công danh, hạnh phúc của người dũng sĩ lỗi lạc.     Cuộc cầu hôn không thành, Đan Săn lên ngựa trở về. Thần ánh sáng đã làm cho đất nhão ra. Chàng dũng sĩ đã chết trong tư thế lẫm liệt. Mặc dù vậy, Đam Săn là tù trưởng duy nhất đi tới được vương quốc nữ thần Mặt Trời. Người Ê đê xưa và nay vô cùng tự hào về hành trình của Đam Săn. Cách giải thích hiện tượng tự nhiên, Mặt Trời và ánh sáng của người Ê đê xa xưa rất kì diệu.     Đoạn Đam Săn đi bắt nữ thần Mặt Trời là đoạn hay nhất tràng lệ nhất, bi tráng nhất trong sử thi "Bài ca chàng Đam Săn". Nghệ thuật phóng đại và so sánh được sử dụng trong miêu tả và chuyện kể rất thần tình, đầy ấn tượng. Chữ đồng Tử Một vài điều cần biết về chuyện cổ tích     1. Cổ tích là tích cũ, chuyện xa xưa, ra đời khi xã hội có áp bức, bóc lột. Cổ tích kể về những truyện  mang yếu tố hoang đường, sự tích kì lạ về con người, hoặc thế giới muôn loài, chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc.     2. Người ta chia truyện cổ tích thành 3 loại:     - Truyện cổ tích loài vật (Quạ và Công; Con thỏ tinh khôn...)     - Truyện cổ tích thần kỳ (Chử Đồng Tử, Cây khế)     - Truyện cổ tích sinh hoạt (Chàng ngốc, Cái cân thuỷ tinh...)     3. Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giàu và nghèo, thống trị và bị thống trị, chính nghĩa và phi nghĩa... Các bài học về ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, tham thì thâm... rất dễ bắt gặp trong truyện cổ tích. Cổ tích nêu cao khát vọng về tự do và hạnh phúc, công bằng ở đời. Truyên "Chử Đồng Tử"     1. Tóm tắt.     Ngày xưa ở nàng Chử Xá có hai cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử, nghèo khổ, mò cua bắt ốc, chỉ có một chiếc khố chung nhau, hễ ai đi đâu thì đóng: Chử Cù Vân ốm sắp chết dặn con cứ táng trần cho cha. Nhưng khi Chử Cù Vân qua đời thì Chử Đồng Tử đã lấy khố đóng cho cha rồi mới chôn cất. Ngày ngày Chử Đồng Tử vẫn xuống sông mò cua bắt cá kiếm sống. Thuở ấy có nàng Tiên Dung, công chúa của vua Hùng thứ ba, nhan sắc tuyệt trần, đã 17, 18 tuổi mà không chịu lấy chồng, chỉ thích chèo thuyền đi xem sông núi. Một hôm, thuyền của nàng đến khúc sông làng Chử Xá, thấy cảnh sông nước bờ bãi xinh đẹp, nàng bèn ra lệnh cho thị nữ vây màn tứ vi vào một nơi có bóng mát để tắm. Không ngờ nơi đó Chử Đồng Tử đang náu mình dưới cát. Tiên Dung giội nước một lúc, nàng giật mình thấy một chàng trai trồi lên. Nàng hỏi duyên cớ thì Chử Đồng Tử nói vì không có quần áo, thấy thuyền quan quân thì sợ nên phải vùi mình xuống cát để ẩn.     Tiên Dung nói với Chử Đồng Tử : "Tôi đã nguyện không lấy chồng, nay duyên trời run rủi, lại gặp chàng chốn này mới biết cưỡng không được với trời". Nàng sai thị nữ đem áo quần cho Chử Đồng Tử và sửa soạn tiệc hoa. "Chử Đồng Tử bối rối chối từ, Tiên Dung nói: "Thiếp với chàng là tự trời xe duyên, việc gì mà từ chối!". Hai người nên vợ nên chồng từ đấy.     Vua Hùng được tin giận lắm, ra lệnh cho quân quan, người hầu của Tiên Dung phải về kinh đô. Nàng sợ cha, đành cùng chồng ở lại làm ăn. Mấy năm sau, cuộc sống trở nên thịnh vượng. Nàng để chồng ra biển tìm vật lạ đem về đổi lấy các thứ khác. Chử Đồng Tử lên đường. Đến một nơi núi non hữu tình, thấy cái am nhỏ, chàng leo lên núi, may thay gặp sư Phật Quang. Thấy Chử Đồng Tử là người chân thật, sư Phật Quang truyền cho phép lạ, hơn một năm sau thành tài. Chử Đồng Tử xuống núi trở về nhà, lạy tạ nhà sư và được Phật Quang ban cho một cái gậy, một nón có phép mầu nhiệm biến hoá. Chử Đồng Tử đem phép mầu truyền lại cho Tiên Dung rồi hai vợ chồng du ngoạn cảnh sông núi. Có lần trời tối giữa đường, hai vợ chồng cắm cái gậy xuống đất, úp nón lên đầu gậy, hai người tựa vào nhau dưới nón mà ngủ. Nửa đêm tỉnh giấc, hai vợ chồng thấy mình đang sống trong một cung điện tráng lệ... Tin lạ ấy bay đến tai vua Hùng. Vua cả giận, ngỡ là Chử Đồng Tử và Tiên Dung làm phản bèn sai quân quan đi đánh dẹp. Binh mã triều đình chưa qua sông thì trời tối phải dừng lại. Đêm ấy, Tiên Dung và Chử Đồng Tử cùng bay lên trời. Mưa to, gió lớn, cung điện cũng biến mất. Về sau, bãi ấy gọi là bãi Tự Nhiên, đầm ấy gọi là đầm Nhất Dạ. Nghe nói, thời nước ta bị tàu đô hộ, Chử Đồng Tử đã cưỡi rồng xuống giúp Triệu Việt Vương một cái vuốt rồng cắm lên mũ đầu mâu... Nhờ thế mà quân ta phản công, chém được tường giặc Lương là Dương Sằn, khôi phục lại đất nước.     2. Ý nghĩa.     - Chử Đồng Tử " là một truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần kỳ"     Nó cũng thuộc đề tài về những kẻ hèn mọn "lấy tiên, lấy công chúa... được kể qua nhiều truyện cổ tích thần kì. Truyện "Chử Đồng Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò cua, bắt cá, nghèo khổ, một cái khố cũng không có, nhưng rất hiếu thảo, chân thật. Hạnh phúc cầm tay rồi mà chàng vẫn bối rối, muốn chối từ. Với Tiên Dung thì nàng "gặp" và lấy Chử Đồng Tử là do "duyên trời run rủi", là " tự trời xe duyên". Qua đó, ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên quan niệm của nhân dân ta về vấn đề hôn nhân  là do duyên số, đồng thời thể hiện ước mơ tự do và dân chủ trong tình yêu, trong xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Tiên Dung đã chủ động kết duyên với Chử Đồng Tử vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua mọi thử  thách để bảo vệ hạnh phúc.  Tình tiết Chử Đồng Tử cưỡi rồng xuống hạ thế giúp Triệu Việt Vương chiếc vuốt rồng linh nghiệm... để quân ta chém được tướng giặc là Dương Sằn, Tổ quốc được giải phóng, đã làm cho truyện cổ tích này thêm vị truyền thuyết thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của nhân dân ta. Con người Việt Nam dù đi đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn, tìm mọi cách để giúp nước. Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã sống và hành động như vậy.     Nhà sư Phật quang, cái nón và chiếc gậy nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi, Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phục cái vuốt rồng.... đó là yếu tố hoang đường, kì d

File đính kèm:

  • docSỔ TAY VĂN HỌC 10.doc