I. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VHVN TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1.Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hoá.
* Tiền đề:
- Pháp xâm lược, khai thác thuộc địa.cho nên cơ cấu xã hội VN có những biến đổi sâu sắc.
- Văn hoá VN tiếp xúc với văn hoá PT (Pháp).
- Vai trò của ĐCSVN đối với sự phát triển nền văn hoá dân tộc: làm cho nền văn hoá phát triển theo chiều hướng tiến bộ và cách mạng.
- Báo chí và nghề xuất bản phát triển mạnh; chữ quốc ngữ dần dần thay thế chữ Hán, chữ Nôm; phong trào dịch thuật phát triển, lớp trí thức Tây học thay thế lớp trí thức Nho học, đóng vai trò trung tâm trong đời sống văn hoá thời kì này.
* Khái niệm hiện đại hoá: là quá trình làm cho văn học VN thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học TĐ và đổi mới theo hình thức văn học PT, có thể hội nhập với nền vaă học hiện đại thế giới.
* Qúa trình hiện đại hoá:
a. giai đoạn 1: (1900 - 1920):
137 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Ôn văn 11 - Phần 1: Những bài văn chọn lọc, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
¤n V¡N 11-P1: Nh÷ng bµi v¨n chän läc
Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng tám 1945
I. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VHVN TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
1.Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hoá.
* Tiền đề:
- Pháp xâm lược, khai thác thuộc địa...cho nên cơ cấu xã hội VN có những biến đổi sâu sắc.
- Văn hoá VN tiếp xúc với văn hoá PT (Pháp).
- Vai trò của ĐCSVN đối với sự phát triển nền văn hoá dân tộc: làm cho nền văn hoá phát triển theo chiều hướng tiến bộ và cách mạng.
- Báo chí và nghề xuất bản phát triển mạnh; chữ quốc ngữ dần dần thay thế chữ Hán, chữ Nôm; phong trào dịch thuật phát triển, lớp trí thức Tây học thay thế lớp trí thức Nho học, đóng vai trò trung tâm trong đời sống văn hoá thời kì này.
* Khái niệm hiện đại hoá: là quá trình làm cho văn học VN thoát khỏi hệ thống thi pháp văn học TĐ và đổi mới theo hình thức văn học PT, có thể hội nhập với nền vaă học hiện đại thế giới.
* Qúa trình hiện đại hoá:
a. giai đoạn 1: (1900 - 1920):
- Chữ quốc ngữ phát triển
- Đội ngũ sáng tác là các nhà văn Hán học cấp tiến đảm nhiệm trước nhu cầu xã hội .
- Sáng tác: văn xuôi, báo chí dịch thuật.
-> Các tác phẩm văn học giai đoạn này còn mang dấu ấn cuả thời đại cũ và mới( có cả Phương Đông lẫn Phương tây)
b, Giai đoạn 2:(1920 - 1930):
- Sáng tác: Tầng lớp trí thức Tây học đảm nhiệm.
-Thể loại: Truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ...với đường lối tư tưởng cách tân theo phương Tây. Nổi bật nhất là thơ ( đề cao cái Tôi - cái lemoi). Ngoài ra còn có các thể loại khác như: bút ký kịch thơ.
-> Đây là giai đoạn văn học có nhiều chuyển biến tích cực báo hiệu một cuộc cách mạng mới trong văn học.
c. Giai đoạn 3: (1930 - 1945):
- Hoàn tất quá trình hiện đại hoá với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
- Là giai đoạn bùng nổ các trào lưu văn học
2. Văn học hình thành hai bộ phận và phân hoá thành nhiều xu hướng vừa đấu tranh với nhau vừa bổ sung cho nhau để cùng phát triển.
a. Bộ phận công khai hợp pháp:
* VH lãng mạn:
- là tiếng nói của cá nhân tràn đầy cảm xúc, đồng thời phát huy cao độ trí tưởng tượng để diễn tả những khát vọng, ước mơ.
- Đề tài: tình yêu, thiên nhiên, quá khứ...
- Góp phần quan trọng vào việc thức tỉnh ý thức cá nhân, đấu tranh chống luân lý, lễ giáo PK...làm cho tâm hồn người đọc thêm tinh tế và phong phú...
- Tiêu biểu: Thơ mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, truyện ngắn trữ tình của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếch, tuỳ bút và truyện ngắn của Nguyễn Tuân.
- H/c: ít gắn với đời sống xã hội chính trị...
* VH hiện thực:
- ND: phơi bày thực trạng bất công, thối nát của xã hội đương thời, phản ánh tình cảnh khốn khổ của các tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột với một thái độ cảm thông sâu sắc.
- Tiêu biểu: Nam Cao, NCH, Nguyên Hồng, Tô Hoài, VTP, NTT...
b. Bộ phận phát triển bất hợp pháp:
- Có thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt là thơ của các chí sĩ và các chiến sĩ cách mạng trong tù. Tiêu biểu: Tố Hữu, NAQ- HCM.
- Đánh thẳng vào bọn thống trị thực dân cùng bè lũ tay sai, nói lên khát vọng độc lập, đấu tranh để giải phóng dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn và niềm tin không gì lay chuyển nổi vào tương lai tất thắng của cách mạng.
- Qúa trình hiện đại hoá gắn liền với quá trình cách mạng hoá văn học.
Hai bộ phận văn học này có sự tác động qua lại lẫn nhau; làm cho văn học phát triển không ngừng.
3. Văn học phát triển với một tốc độ hết sức nhanh chóng
- Từ năm 1900 - 1945, đặc biệt là từ 1930 - 1945, các bộ phận, các xu hướng văn học đều vận động phát triển với một tốc độ đặc biệt khẩn trương, mau lẹ: số lượng tác giả và tác phẩm, sự hình thành và đổi mới các thể loại văn học và độ kết tinh ở những tác giả, tác phẩm tiêu biểu.
- Nguyên nhân: do sự thúc bách của yêu cầu thời đại, sự vận động tự thân của nền văn học, sự thức tỉnh của cái tôi cá nhân, viết văn trở thành một nghề kiếm sống.
__________________
Bình bài thơ Tràng giang
Tràng giang - tạo vật với tâm tình
Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất.
ThS. Đào Đức Doãn
Đại học Sư phạm Hà Nội
Mở đầu bài thơ đã là dòng sông, mặt nước, lòng người. Tạo vật với tâm tình cứ xen lẫn vào nhau làm cho câu thơ có sức gợi hơn là tả:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" - bài thơ là cả một cảnh lớn - tràng giang, và một tấm lòng rộng mênh mang cùng "trời rộng sông dài" ấy. Câu thơ thứ nhất, bốn chữ đầu là tả, ba chữ sau đã là gợi. Tả và gợi cứ xen vào nhau. "Con thuyền xuôi mái nước song song" là hiện thực, là bức tranh trước mắt. Đến "Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả" thì không còn là bức tranh ấy nữa, mà đã là tương lai, là nghĩ suy, là chia ly và tâm tình. Dòng Tràng giang trở thành dòng thời gian ấy, mọi cái đều buông trôi, thụ động: "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Con thuyền xuôi mái" - mọi cái đều dẫn đến chia ly: "Thuyền về nước lại".
Bức tranh thiên nhiên có tràng giang, sóng nước, con thuyền gợi không khí trang nghiêm cổ kính. Bút pháp cũng là bút pháp của thơ cổ: thiên nhiên rộng rãi khoáng đạt được điểm bằng vài nét chấm phá. Nhưng chấm phá bằng chi tiết kỹ và tinh quá. Đến như "củi một cành khô" cũng được đưa vào thơ thì hơi thơ đã mất đi nhiều âm điệu cổ điển. Cái buông trôi, thụ động của hình ảnh "Con thuyền xuôi mái nước song song" bị đẩy đến mức tuyệt vọng hơn nữa, thành cái nổi trôi, bất định của một cành củi khô không đáng kể gì giữa sông nước tràng giang mênh mông, rợn ngợp.
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Câu trên tả cái có. Câu dưới tả cái không. Cồn nhỏ chỉ lơ thơ, gió chỉ đìu hiu. Có đấy mà không đáng kể gì. Tất cả đều chỉ là không: không tiếng làng xa, không một chuyến đò, không cầu gợi chút niềm thân mật. Những câu thơ như thế, đâu phải để tả những "lơ thơ cồn cỏ", những "gió đìu hiu", hay "nắng xuống trời lên", mà thực ra chỉ để tả cái vô tận, không cùng và vắng lặng đến thành rợn ngợp của "Sông dài trời rộng, bến cô liêu". "Bến cô liêu" là một đặc điểm trong không giang cũng như có hồn người. Tả và gợi lại quyện vào nhau, cái tâm tình cứ luôn được toát lên từ tạo vật.
Khổ thơ tiếp theo lại thêm một nét chấm phá nữa vào bức tranh khung cảnh: "Bèo dạt về đâu hàng nối hàng". Nếu là "bèo dạt nối hàng" thì chỉ là tả một cách khách quan. "Bèo dạt về đâu", rồi ngắt ra, sau đó mới là "hàng nối hàng". Câu thơ không còn tả nữa, mà đã là hỏi, là tâm trạng "bèo dạt hoa trôi". Không gian trải ba chiều: cao, rộng và dài. Tất cả đều chỉ là quạnh vắng với cô liêu. Tất cả đều chỉ là nhỏ bé, mơ hồ, mỏng manh trước cái vô tận, không cùng của vũ trụ. Vậy thì sao mà không khỏi thốt lên, than thở cho những số kiếp con người trôi dạt trên con sông thời gian. "Bèo dạt về đâu" ấy thế là thành tâm trạng, là số kiếp, là thân phận chứ không đơn thuần dòng sông mặt nước. Hai câu thơ giữa đoạn:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật...
không phải là sự phủ định, mà là ao ước thiết tha nhưng vô vọng về hình bóng con người. Nếu hiểu đây chỉ là cách nói phủ định để nhằm làm nổi lên cái "dài", "rộng" và "cô liêu" thì ý nghĩa tâm tình mất đi nhiều, còn lại chỉ đơn thuần là thủ pháp, là kỹ thuật mà thôi.
Đến khổ thơ cuối bài, hai câu đầu là tạo vật, hai câu sau lại là tâm tình:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Mây đùn như núi, lớp lớp phía chân trời. Sự liên tưởng thật là độc đáo. Nhìn một cánh chim lẻ loi chao liệng mà thi sĩ tưởng như nó đang chịu sự đè nặng của cả vũ trụ, trời đất. Vũ trụ trời đất ấy lớn lao, không cùng không tận, dồn sức nặng vào bóng chiều làm chim phải nghiêng cánh, lệch cánh. Sự sống thật mỏng manh yếu ớt.
Trở lại cả bài thơ, toàn sự đối lập như thế cả. Cái hữu hạn thì vô nghĩa vô hướng, chỉ là không đáng kể, mơ hồ và nhạt nhòa. Cái vô hạn thì sừng sững, không cùng, trùm lấp và chi phối. Một bên là "Con thuyền xuôi mái"; "Củi một cành khô lạc mấy dòng", "Bèo dạt về đâu" và "chim nghiêng cánh nhỏ"... Bên kia, đối lập hẳn, là "sầu trăm ngả", "buồn điệp điệp", "mây cao đùn núi bạc",... Cái hữu hạn đối diện với cái không cùng như thế, làm sao con người không trở nên lạc loài, vô vọng.
Ai cũng biết hình ảnh cuối bài thơ "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" là tiếp ý thơ Thôi Hiệu: "Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Câu thơ Huy Cận cao độ hơn, "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Không khói hoàng hôn nhưng đã có cả trời nước tràng giang vô tận, không cùng. Cái không cùng vời rộng của mây nước tràng giang rợn ngợp đến thành cảm giác da thịt "dờn dợn vời con nước". Bài thơ không cốt tả "hình xác" mà gợi cái "thần xác" của tạo vật. Trên nền "thần xác" ấy, mạch tâm tình tự nhiên đạt đến cao độ, để sự da diết "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" như tự nỗi niềm cất lên thành câu chữ. Cái tứ của bài thơ đến câu thơ cuối mới lộ ra. Cả bài thơ như thế là nỗi lòng bâng khuâng, cô tịch của một lữ khách "thiếu quê hương" đứng trước con sông thời gian, cái tôi bé nhỏ đòi khẳng định mà đành bất lực. Cảm hứng của cả một thời thơ mới trở thành độc đáo, mang cái "sầu thiên cổ" rất riêng của Huy Cận.
Tạo vật với tâm tình là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" mang âm điệu thơ cổ điển. Và chính là tạo vật - tâm tình ấy cũng là nguồn mạch làm cho "Tràng giang" trở thành Thơ mới ảo não vào bậc nhất.
Nguồn:Báo Văn nghệ, số 10-1992
Tư liệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến
NGUYỄN KHUYẾN
(1835-1909)
I. CUỘC ÐỜI, THỜI ÐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
1. Cuộc đời
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ý yên Nam Ðịnh. Lớn lên sống ở làng Yên Ðỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông Mất ngày 24/2/1909.
Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hương và đỗ giải nguyên ở trường Nam Ðịnh.
Năm 1871, Thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Ðình đỗ Ðình nguyên. Ông từng thi đỗ Tam nguyên nên người ta gọi Nguyễn Khuyến là Tam nguyên yên Ðỗ và làm quan dưới riều Tự Ðức.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về đời sống đời sống và sự gắn bó của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân.
Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.
2. Sự nghiệp
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán. Cả hai loại đều khó xác định vì nó rất điêu luyện.
Trong bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình. Còn trong thơ chữ Hán thì hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói trên hai lĩnh vưcï Nguyễn Khuyến đều thành công.
3. Thời đại
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên giấc mơ trị quốc bình thiên hạ của ông không thực hiện được.
Lúc này Nam kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương tan rã.
Có thể nói, sống giữa thời kỳ các phong trào đấu tranh yêu nước bị dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực vì không làm được gì để thay đổi thời cuộc và cũng không cam tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm trạng bất mãn, bế tắc của nhà thơ.
II. NỘI DUNG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:
1.Tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng:
1.1. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến:
Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến trước hết gắn kiền với tư tưởng trung quân. Ðây là một tư tưởng yêu nước hết sức chân chính tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa là một ông quan từng hưởng bổng lộc của triều đình nên tư tưởng trung quân đậm nét. Trong Di chúc, ông thể hiện rõ quan điểm của mình:
Khi đưa Thầy con rước đầu tiên
Cờ biển vua ban ngày trứơc
Sống giữa thời kỳ nước mất nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nứơc rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Lòng Nguyễn Khuyến từng dạt dào bao ý định chua xót về quyết định này:
Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,
Quy gia vị tất tử tôn hiền?
(Cảm tác)
Dịch nghĩa:
Bỏ chức há không bạn bè ở lại
Về nhà vị tất con cháu đã khen thay?
Về sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều người tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy rất rõ họ không phải là kẻ bất tài, mà trái lại, đó là những kẻ dũng thoái :
Khả hạnh chư quân năng dũng thoái,
Vị ưng nhất chức tẫn phi tài
Bách niên tứ hà vi giả,
Ngô ấp khâu lăng diệc mỹ tai!
(Vũ hậu xuân túy cảm thành)
Dịch nghĩa:
Ðáng mừng các bạn mạnh dạn dám lui về,
Ðâu phải là đối với chức vụ mình không làm nổi
Cuộc đời trăm năm xe ngựa có ra trò gì,
Mà ở quê chúng ta gò núi vẫn tươi đẹp lắm
(Cảm hoài sau bữa chén xuân sau cơn mưa )
Sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyến sống ở làng quê và xem quê hương như chiếc nôi, chỗ dựa vững chắc ch cuộc sống bình dị của mình. Ông sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi người. Ông thường làm các bài thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ đẹp của các loai hoa, ca ngợi công dụng các loài cây, qua đó muốn nói đến cái đức của mình.
Nguyễn Khuyến còn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của con người nhằm khẳng định phẩm chất trong sạch của ông. Ông quan niệm:
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc
Tâm trung thường thủ tự kiên kim
Lời ca ngợi tiết tháo của người đàn bà đáng thương trong bài thơ Mẹ mốc của Nguyễn khuyến có cái gì giống như sự quyết tâm của nhà thơ:
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết.
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.
Nguyễn Khuyến là người coi trọng danh dự và khí tiết nên nhiều lần nhà thơ từng trăn trở về vấn đề này:
Thế đồ kim hựu đa kha khảm,
Lợi cục nan năng quả oán vưu.
Vị ngã phất tu chung hữu khích,
Thức nhân thỏa diện tích bằng ưu.
(Tiểu thán)
Dịch nghĩa:
Trên đường đời, nay lại gặp nhiều bứơc gập gềnh,
Trong cuộc đời khó giữ được ít lời oán trách.
Kẻ phẩy râu cho mình, rốt cuộc cũng gây nên hiềm khích,
Người ta nhổ vào mặt mình chùi đi, đời xưa còn cho là đáng lo.
(Vài lời than)
Có thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ phẩm chất của mình. Nhiều bài thơ tiêu biểu có tính chất triết lý cao: Di chúc, Vườn Bùi chốn cũ, Vịnh cây tùng, Cây lược đồi mồi, Mẹ Mốc, Xuân dạ lân nga, nhân tặng nhục, Tiểu thán...
1.2. Sự quan tâm lo lắngcho đất nước:
Thể hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm được gì để thay đổi thời cuộc. Lời thơ thường đượm buồn, đầy nước mắt khi nói về đất nước:
Ðời loạn người về như hạt độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
(Cảm tác)
Sách vở ích gì cho buổi ấy
Aùo xiêm nghĩ lại thẹn thân già
(Ngày xuân dặn các con)
Hình ảnh quê hương đất nước xuất hiện trong thơ ôngkhi trực tiếp, khi gián tiếp, khi cụ thể nhưng đều dưới dạng trữ tình ảm đạm của nhà thơ:
Cố quốc sơn hà chân thảm đạm
(Hung niên)
Nhất độ giang sơn nhất bạc đầu
(Thu tứ)
Nhà thơ từng mượn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nước da diết, khắc khoải của mình. Bài thơ Cuốc kêu c ảm hứng như một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông.
Nói chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ tình của Nguyễn Khyến là buồn. Nghe tiếng hát giữa đêm khuya hay tết đến, xuân về đều khiến nhà thơ buồn tê tái:
Xuân về ngày loạn còn lơ láo
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ,
2. Thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến
2.1.Ðối với thực dân Pháp:
Ðả kích những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc lột sức người, sức của của nhân dân. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn người dân vô tội đến chốn ma thiêng nước độc. Bài thơ Hội Tây, Hoài cổ, Văn tế Cơ ri vi e(*)â đã phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc:
Hỡi ôi!
Ông ở bê Tây,
Ông qua bảo hộ.
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ,
Ðít ông cưỡi lừa,
Miệng ông húyt chó,
Lưng ông đeo súng lục liên,
Chân ông đi giày có mỏ,
Ông dẹp cờ đen
Ðể yên con đỏ.
Ai ngờ:
Nó bắt được ông,
Nó chặt mất sỏ.
Cái đầu ông đâu?
Cái đít ông đó.
Khốn khổ thân ông
Ðéo mẹ cha nó
2.2. Ðối với bọn quan lại, bọn me Tây, gái điếm:
Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trường và thế giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại.
Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa thối nát của bọn quan lại nào là bất tài, vô dụng, dốt nát chỉ là thứ phỗng đá không hơn không kém, trơ trơ trước sự nguyền rủa của dân.
Thái độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát. Ông mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói mát chửi mát theo kiểu Việt Nam Nói ngọt mà lọt đến xương, Nguyễn Khuyến đả kích, châm biếm xỏ ngầm rất thâm độc. Thậm chí khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo như chơi chữ, nói láy, dùng từ đa nghĩa, dùng âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt.
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn vòi xu
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc
Không khéo mà roi nó phết cho
(Bồ tiên thi)
Các bài thơ tiêu biểu: Ông phỗng đá, Lời vợ người hát chèo, Hỏi thăm quan tuần bị mất cướp, Bồ tiên thi, tặng ông Ðốc học Hà Nam đều là những bài thơ vạch mặt chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách bằng thái độ châm biếm tố cáo sâu sắc.
Trong bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Ðộ sinh từ hữu cảm là thái độ khinh bỉ, mỉa mai của Nguyễn Khuyến đả kích tên Nguyễn Hữu Ðộ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ của hắn, nhà thơ nghĩ:
Công tại, tứ thời tập quan đới,
Ðắc dự giả hỉ, bất dự bi.
Công khứ, quan đới bất phục tập,
Hương hỏa tịch tịch hoà ly ly.
Dản kiến đệ nhị vô danh công,
Triêu tịch huề trượng lai vu ty.
Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự,
Bất tri cửu nguyên thùy dữ quy?
Dịch nghĩa:
Khi ông còn thì áo mũ cân đai bốn mùa tấp nập,
Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn,
Sau khi ông mất rồi thì không thấy mũ áo xúm xít lại nữa,
Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà.
Chỉ thấy có ông Thứ nhì không tên
Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy.
Ở đời có lúc thịnh, lúa suy, đó là việc thường,
Không biết dưới chín suối bây giờ ông theo ai?
(Cảm nghĩ lúc qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Ðộ)
Nhưng có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang hàng Vợ bợm chồng quan danh phận đó (Ðĩ Cầu Nôm) dễ làm ta liên tưởng đến câu tục ngữ mèo mả gà đồng, là những tên không ra gì.
Ðặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Khuyến tỏ ra không khoang nhượng khi viết về bọn me Tây, gái điếm. Trong một vế câu đối Mừng cô Tư Hồng ông viết:
Có tàn, có tán, có hương án thờ vua danh giá lẫy lừng ba mươi sáu tỉnh.
Ở một câu đối khác:
Thôi cũng đừng cõng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú Bát, phú quý dì Tư, mây nổi đã từng qua trước mắt
Có thể nói, cũng như các nhà thơ thuộc khuynh hướng hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn Khuyến đã bám vào hiện tượng cụ thể để đả kích. Từng con người, từng hiện tượng và những sự việc lố lăng trong xã hội đều bị vạch trần và thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông.
2.3.Ðối với khoa danh, khoa giáp thời ấy:
Cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhưng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế như xưa nữa. Thế nhưng nhà Nguyễn nẫn cố duy trì ba kỳ thi: Thi Hương , thi Hội, thi Ðình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Cống. Vì vậy, sự tương phản càng rõ nét.
Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những người không ra gì. Có danh nhưng không thực. Mặc dù:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông Nghè có kém ai
Nhưng ông lại tiếc rẻ:
Chiếc thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
Ấy thế còn ra dáng đường bệ:
Ghế tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi
Bài thơ gợi ra mối liên tưởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở thời kỳ nước mất, nhà tan. Ðạo nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhưng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng.
Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ siõ bị đánh mất trước tiền tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve gái goá là một ví dụ tiêu biểu:
Ở góa thế gian nào mấy mụ
Ði ve thiên hạ thiếu chi thầy
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.
3. Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương
3.1. Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:
Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhưng ông không hề thoát ly hiện thực. Lúc nào ông cũng say sưa chan hoà với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức chân thật và sống động.
- Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu được tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu điếu, Thu vịnh đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.
- Nguyễn Khuyến còn những bài thơ tả cảnh hè (Ðêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo.
- Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Ðọi) đều trở thành những danh lam thắng cảnh của đất nước.
Nguyễn Khuyến nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của người thưởng ngoạn và bằng tâm hồn của thi nhân nên trước vẻ đẹp của đất nước đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế.
3.2. Tình cảm của Nguyễn Khuyến:
3.2.1 Trước những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân:
Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của người lao đôïng nghèo.Ôâng đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ước cái họ từng mơ ước. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân:
Lão làm ái táo, miên tương khởi,
Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì
(Hạ nhật tân tình)
Dịch nghĩa:
Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy,
Lúa mới ngậm hơi ấm, đòng đòng dần mẫn ra.
(Ngày hè mưa mãi mới tạnh)
Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống.
Ngoài những lo toan tính toán vì công nợ của nhà nông:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua.
Chiêm mất đằng chiêm mùa mất mùa
(Chốn quê)
Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác như tâm trạng vui vẻ của người nông dân vào những ngày tết được mùa được ông ghi nhận:
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt
Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa đói khổ:
Dở trời mưa bụi còn hơn rét,
Nếm rượu tượng đình được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xao xác,
Nợ nần năm trước hỏi lung tung.
(Chợ đồng)
3.2.2. Tình cảm đối với gia đình, bạn bè làng xóm:
Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật, đáng quý.
- Ðối với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành của ông đối với vợ.
-
Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm, hay làm thắt lưng có que,xắn váy quai cồng, tất cả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ, vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm
- Ðối với con,ông rất thương yêu và quý trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình:
Hoàn cư bất mãn cửu cao thổ,
Tố nghiệp thư tha nhất thúc thư.
Nhi tào hoặc khả thừa ngô chí,
Bút nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ.
(Xuân nhật thị chư nhi (I) )
Dịch nghĩa:
Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất,
Nghiệp cũ chẳng có gì ngoài một bó sách
Các con nối chí cha nên biết
Bút nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà
(Ngày xuân dặn các con (I) )
- Ông không chỉ viết về gia đình mà còn làm câu đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn... Bài nào cũng chân tình giản dị.
- Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc Dương Khuê, Nước lụt thăm bạn ... ). Trước cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình:
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác vài ngày.
Làm sao bác vội về ng
File đính kèm:
- On VAN 11P1 Nhung bai van chon loc.doc