Bài thuyết trình Bài 21 : Ngắm trăng (vọng nguyệt)

I-Tìm hiểu tác giả-tác phẩm:

1-Tác giả :

Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh CungQuê nội là làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù.

 

ppt34 trang | Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài thuyết trình Bài 21 : Ngắm trăng (vọng nguyệt), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KÍNH CHÀO CÔ VÀ CÁC BẠN ! HÔM NAY NHÓM 2 CHÚNG EM XIN THUYẾT TRÌNH BAÌ CUẢ NHÓM MÌNH MỜI CÔ VÀ CÁC BẠN CÙNG CÁC BẠN THEO DÕI HỒ CHÍ MINH (Trích: Nhật kí trong tù) I-Tìm hiểu tác giả-tác phẩm: 1-Tác giả : Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh CungQuê nội là làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù. Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, ồ Chí Minh mất vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969 , tức ngày 21 tháng 7 âm lịch, hưởng thọ 79 tuổi. Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). 2-Tác phẩm :     “Nhật kí trong tù” là tập thơ bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh gồm có 133 bài thơ, phần lớn là thơ tứ tuyệt, được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943, khi Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ, đày đọa trong nhiều nhà ngục tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc).     Tập nhật ký bằng thơ này đã phản ánh chân thực, cảm động một tâm hồn lớn, một dũng khí lớn, một trí tuệ lớn của người chiến sĩ vĩ đại trong cảnh tù đày. Tác phẩm: Nhật kí trong tù bằng tiếng Hán 3-Bố cục: 2 đoạn: Đoạn 1: 2 câu thơ đầu: nói lên tâm trạng của Bác trước cảnh trăng đẹp ngoài trời Đoạn 2 : Hai câu thơ còn lại: ngươì tù ấy thả hồn ra ngoài song sắt để giao hoà với trăng ĐẠI Ý: Tình yêu say mê và phong thái ung dung của Bác Hồ ngay cả trong cảnh ngục tù cực khổ tối tăm II- Phân tích: Hai câu thơ đầu: Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cúng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi. Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hản rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng? “Trong tù không rượu cũng không hoa,   Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”. Hai câu thơ tiếp: Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghia sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù, Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác: “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”… Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người tù là một thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần” ở ngoài lao” Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ: “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,   Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia . Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại, lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng trăng.     Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi thuyền ngắm trăng, Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”, “… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng thưo…” Trăng tròn, trăg sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một nhà thơ giàu tình yêu đất nước quê hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.     Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ đẹp cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao nói về trăng làng quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi… trăng thề nguyền, trăng chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”… của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….   Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay – “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi) Ngắm trăng, thưởng trăng đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở. Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh. Bài thuyết trình của nhóm em đến đây là hết! Cảm ơn cô và các bạn đã chú ý lắng nghe và theo dõi!

File đính kèm:

  • pptBai 21 Ngam trang vong nguyet.ppt