Bài giảng Tiết 106: Sống chết mặc bay tiết 1_ Phạm Duy Tốn

Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa cũng không việc gì.

Trong đình đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt. Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bài.

Ngoài kia, tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch nghiêm trang lắm: Trừ quan phụ mẫu ra mọi người không ai dám to tiếng. So với cái cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh.

 

ppt22 trang | Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1106 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Tiết 106: Sống chết mặc bay tiết 1_ Phạm Duy Tốn, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiết 106 Phạm Duy Tốn Thưa rằng: Đang ở trong đình kia, cách đó chừng bốn năm trăm thước. Đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chãi, dẫu nước to thế nữa cũng không việc gì. Trong đình đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người hạ, đi lại rộn ràng. Trên sập, mới kê ở gian giữa, có một người quan phụ mẫu, uy nghi chễm chện ngồi. Tay trái dựa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điếu đóm. Bên cạnh ngài mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đồi mồi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuôi ngà, nào ống vôi chạm, ngoáy tai, ví thuốc, quản bút, tăm bông trông mà thích mắt. Chung quanh sập, bắc bốn ghế mây, bắt đầu từ phía hữu quan thì có thầy đề, rồi lần lượt đến thầy đội nhất, thầy thông nhì, sau hết giáp phía tay tả ngài, thì đến chánh tổng sở tại cùng ngồi hầu bài. Ngoài kia, tuy mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít, nhưng trong này xem chừng tĩnh mịch nghiêm trang lắm: Trừ quan phụ mẫu ra mọi người không ai dám to tiếng. So với cái cảnh trăm họ đang vất vả lấm láp, gội gió tắm mưa, như đàn sâu lũ kiến ở trên đê, thời ở trong đình rất là nhàn nhã, đường bệ nguy nga: nào quan ngồi trên, nào nha ngồi dưới, người nhà lính lệ khoanh tay sắp hàng, nghi vệ tôn nghiêm, như thần như thánh. Trái với cảnh ngoài đê, cảnh trong đình (vị trí ngôi đình, không khí chung, hình ảnh quan phụ mẫu) được miêu tả ra sao? Để làm nổi bật cảnh tượng náo loạn với những hiểm nguy đang đe doạ, rình rập ở ngoài đê với cảnh trang nghiêm, nhàn nhã, xa hoa của viên quan vô trách nhiệm trong đình, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật gì? Ôi! Trăm hai mươi lá bài đen đỏ, có cái ma lực gì mà run rủi cho quan mê được như thế?...Này, này đê vỡ mặc đê, nước sông dù nguy, không bằng nước bài cao thấp. đứng trên đê mà đốc kẻ cắm cừ, người đổ đất, lắm nỗi lầm than, sao bằng ngồi trong đình đã sẵn kẻ bốc nọc, người chia bài, nhiều đường thú vị. Than ôi! Cứ như cái cách quan ngồi ung dung như vậy, mà hai bên tả hữu nha lại nghiêm trang lính hầu rầm rập, thì đố ai dám bảo rằng : gần đó có sự nguy hiểm to, sắp sinh ra một cảnh nghìn sầu muôn thẳm, trừ những kẻ lòng lang dạ thú, còn ai nghĩ đến, mà chẳng động tâm, thương xót đồng bào huyết mạch!... Mặc! Dân, chẳng dân thời chớ! Con bài ngon há nỡ bỏ hoài ru! Quan lớn ngài ăn, ngài đánh; người hầu kẻ dạ, kẻ vâng. Sướng bao nhiêu, thích bao nhiêu! Lúc quan hạ, bài ù, ai ai là người chẳng ngợi khen tấm tắc! Một nước bài cao, bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập! Vậy mà không hiểu thời thật là phàm!  Đoạn văn trên là lời của ai? Khi đê sắp vỡ thì khung cảnh náo loạn ở ngoài đê có được miêu tả trực tiếp như ở phần trước nữa không? Tác giả miêu tả như thế nào? Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi, ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to. Có người khẽ nói: Bẩm, dễ có khi đê vỡ ! Ngài cau mặt, gắt rằng: Mặc kệ ! Rồi ngồi xếp bài lại, quay gối sang bên tay phải, nghiêng mình bảo thầy đề lại: Có ăn không thì bốc chứ ! Thầy đề vội vàng: - Dạ, bẩm, bốc. Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi, ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to. Có người khẽ nói: Bẩm, dễ có khi đê vỡ ! Ngài cau mặt, gắt rằng: Mặc kệ ! Rồi ngồi xếp bài lại, quay gối sang bên tay phải, nghiêng mình bảo thầy đề lại: Có ăn không thì bốc chứ ! Thầy đề vội vàng: - Dạ, bẩm, bốc. Đối chiếu với cảnh ngoài đê ở phần a, em hãy chỉ ra và phân tích biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng? Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi, ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to. Có người khẽ nói: Bẩm, dễ có khi đê vỡ ! Ngài cau mặt, gắt rằng: Mặc kệ ! Rồi ngồi xếp bài lại, quay gối sang bên tay phải, nghiêng mình bảo thầy đề lại: Có ăn không thì bốc chứ ! Thầy đề vội vàng: - Dạ, bẩm, bốc. Biện pháp nghệ thuật tương phản, tăng cấp tiếp tục bộc lộ rõ bản chất của tên quan phụ mẫu ở trong đình. Em hãy làm rõ điều đó ? Khi đó, ván bài quan đã chờ rồi, ngài xơi bát yến vừa xong, ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt đang mải trông đĩa nọc, bỗng nghe ngoài xa, tiếng kêu vang trời dậy đất. Mọi người đều giật nảy mình, duy quan vẫn điềm nhiên, chỉ lăm le chực người ta bốc trúng quân mình chờ mà hạ. Vì ngài sắp ù to. Có người khẽ nói: Bẩm, dễ có khi đê vỡ ! Ngài cau mặt, gắt rằng: Mặc kệ ! Rồi ngồi xếp bài lại, quay gối sang bên tay phải, nghiêng mình bảo thầy đề lại: Có ăn không thì bốc chứ ! Thầy đề vội vàng: - Dạ, bẩm, bốc. Vừa lúc đó thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. ...... ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết ! Nghệ thuật miêu tả gián tiếp qua những âm thanh vọng vào trong đình tiếp tục phát huy tác dụng của mình khi đê vỡ như thế nào? Vừa lúc đó thì tiếng người kêu rầm rĩ, càng nghe càng lớn. Lại có tiếng ào ào như thác chảy xiết; rồi lại có tiếng gà, chó, trâu, bò kêu vang tứ phía. ...... ấy, trong khi quan lớn ù ván bài to như thế, thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết !  Đoạn kết chỉ có một câu nhưng đã dựng lên được một bức tranh tương phản mang ý nghĩa sâu sắc. Em hãy thử tìm hiểu những ý nghĩa trong bức tranh đó? Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời: Bẩm... Quan lớn... đê vỡ mất rồi! Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày ! Có biết không?... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? Dạ, bẩm... Đuổi cổ nó ra ! Ngài quay mặt vào, lại hỏi thầy đề: Thầy bốc quân gì thế ? Dạ, bẩm, con chưa bốc. Thì bốc đi chứ ! Thầy đề tay run cầm cập, thò tay vào đĩa nọc, rút ra một con bài, lật ngửa, xướng rằng: Chi chi ! Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to: Đây rồi !...Thế chứ lại ! Rồi ngài vội vàng xoè bài, miệng vừa cười vừa nói: ù ! Thông tôm, chi chi nảy !... Điếu, mày ! Trong khi nhân dân lâm cảnh thảm sầu như vậy thì “vì phúc tinh”, quan phụ mẫu của chúng ta đang thế nào ? Bấy giờ ai nấy ở trong đình, đều nôn nao sợ hãi. Thốt nhiên một người nhà quê, mình mẩy lấm láp, quần áo ướt đầm, tất tả chạy xông vào thở không ra lời: Bẩm... Quan lớn... đê vỡ mất rồi! Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng: Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày ! Có biết không?... Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à? Dạ, bẩm... Đuổi cổ nó ra ! Ngài quay mặt vào, lại hỏi thầy đề: Thầy bốc quân gì thế ? Dạ, bẩm, con chưa bốc. Thì bốc đi chứ ! Thầy đề tay run cầm cập, thò tay vào đĩa nọc, rút ra một con bài, lật ngửa, xướng rằng: Chi chi ! Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to: Đây rồi !...Thế chứ lại ! Rồi ngài vội vàng xoè bài, miệng vừa cười vừa nói: ù ! Thông tôm, chi chi nảy !... Điếu, mày ! Có nhà nghiên cứu cho rằng bản chất của tên quan phụ mẫu không chỉ được khắc hoạ bằng nghệ thuật tương phản và tăng cấp mà còn được khắc hoạ bằng ngôn ngữ đối thoại đặc sắc. Em có đồng ý với ý kiến này không? Vì sao?  Trong truyện ngắn, vì sao địa điểm xảy ra câu chuyện chỉ là “làng X, phủ X”; quan phụ mẫu lại không có tên cụ thể?  Dựa vào bảng trên, em hãy khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện ? Khoanh tròn vào câu chứa đáp án đúng nhất 1. Giá trị hiện thực của tác phẩm thể hiện ở: Phản ánh cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của tầng lớp quan lại trong xã hội cũ. B. Phản ánh sự đối lập hoàn toàn giữa cuộc sống và sinh mạng của người dân với cuộc sống của bọn quan lại trong xã hội cũ. C. Phản ánh cuộc sống lầm than cơ cực của người dân trong xã hội cũ. 2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở: Niềm cảm thương của tác giả trước cuộc sống lầm than của người dân do thiên tai và do thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền. B. Lên án thái độ vô trách nhiệm của bọn cầm quyền. C. Sự xót xa của tác giả trước cuộc sống lầm than cơ cực của người dân. 3. Giá trị nghệ thuật là: Vận dụng kết hợp thành công hai phép nghệ thuật tương phản và tăng cấp. B. Ngôn ngữ sinh động. C. Cả hai ý kiến trên. B A C Bài tập 1 Em hãy thử đặt lại nhan đề của tác phẩm. So sánh với nhan đề do tác giả đặt và nêu ý nghĩa nhan đề Sống chết mặc bay ? Bài tập 2: Bài tập 3: Em hãy viết đoạn văn ngắn (từ 5 – 7 câu) phát biểu cảm nghĩ của mình về tên quan phụ mẫu.

File đính kèm:

  • pptSong chet mac bay Tiet 1.ppt