Bình sử là một mục trong tác phẩm thời xưa, bắt đầu có từ đời Tống (Trung Quốc) ghi lại lời bình luận, đánh giá của sử gia đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử.
Văn bình sử mang tính chất nghị luận, bộc lộ trực tiếp quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ trong văn bình sử ngắn gọn, sắc sảo và đòi hỏi người cầm bút phải có dũng khí.
10 trang |
Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Phẩm bình nhân vật lịch sử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHẤN NÚT START ĐỂ BẮT ĐẦU TÌM HIỂU (Trích Đại Việt sử kí toàn thư) I/ Tìm hiểu chung: 1.Tác giả: Lê Văn Hưu (1230 – 1322), người làng Phủ Lí, Đông Sơn (nay là thôn Phủ Lí Trung, xã Thiệu Trung, huyện Đông Sơn), tỉnh Thanh Hóa, đỗ Bảng nhãn năm 1247, là nhà sử học nổi tiếng thời Trần. Lê Văn Hưu hoàn thành Đại Việt sử kí toàn thư năm 1272 gồm 72 quyển. Tác phẩm của Lê Văn Hưu hiện đang thất lạc, chỉ còn lại 31 đoạn dưới dạng bình sử do nhóm Ngô Sĩ Liên ghi lại trong Đại Việt sử kí toàn thư Các đoạn văn bình sử của ông đều đặt sau những sự kiện hoặc nhân vật được bình, không có đầu đề và được ghi “ Lê Văn Hưu viết:…”. 2. Bình sử: Bình sử là một mục trong tác phẩm thời xưa, bắt đầu có từ đời Tống (Trung Quốc) ghi lại lời bình luận, đánh giá của sử gia đối với các sự kiện và nhân vật lịch sử. Văn bình sử mang tính chất nghị luận, bộc lộ trực tiếp quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ trong văn bình sử ngắn gọn, sắc sảo và đòi hỏi người cầm bút phải có dũng khí. II/ Đọc – hiểu văn bản: Về Trưng Vương: Trưng Trắc, Trưng Nhị tuy là đàn bà nhưng khi dựng cờ khởi nghĩa thì lại được nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Hình thế đất Việt có thể dựng được cơ nghiệp bá vương. -Nối sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô là những người đàn ông nhưng chỉ cúi đầu bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc. Yếu đuối, đáng xấu hổ. Nghệ thuật: -So sánh: “ việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay”. -Hoán dụ: “ bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay”. Khẳng định tài năng và khí phách phi thường của các anh hùng liệt nữ, khen ngợi đồng thời mang đến bài học và lời nhắn nhủ đối với các bậc nam nhi, quân tử 2. Về Tiền Ngô Vương: Đem quân mới của đất Việt mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoành Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang, chính thống của nước Việt ta gần như nối lại được. “Một cơn giận mà yên được dân”, mưu giỏi, đánh giỏi. Nghệ thuật: Hoán dụ: “một cơn giận mà yên được dân”. Trong lời bàn của Lê Văn Hưu, vai trò của Tiền Ngô Vương là người có công rất lớn, nối lại chính thống của nước Việt sau nghìn năm Bắc thuộc. Trận thủy chiến lịch sử 3. Về Đinh Tiên Hoàng: -Tiên Hoàng tài năng, sáng suốt hơn người, dũng lược bậc nhất đời. -Dẹp loạn 12 sứ quân, mở nước, đóng đô, xưng hoàng đế, đặt trăm quan, dựng sáu quân. Nhấn mạnh vai trò nổi bật của Đinh Tiên Hoàng: dẹp loạn, yên ổn xã tắc, xưng hoàng đế, khẳng định nền độc lập chính thống của dân tộc. Tượng Đinh Tiên Hoàng Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân 4. Về việc ban thưởng: -Điềm lành: là dùng được người hiền và chỉ được mùa “Chim quý thú lạ không nuôi ở nước”, người không công – không được nhận thưởng. Việc ban thưởng phải được xem xét kĩ càng, không tùy tiện khen thưởng cho kẻ không công. Không những vậy, chúng ta còn thấy một tấm lòng ngay thẳng, cương trực, một quan điểm lịch sử chân thực và có cả phê phán của tác giả. Điềm lành không có nghĩa là đem những thứ quý giá để làm vừa lòng người trên, tác giả đã phê phán những thói hư tật xấu của con người trong xã hội mọi thời. Bình luận về tư tưởng, nhân cách của nhà bình sử: Cái nhìn chân thực, xuất phát từ tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, ý thức gìn giữ, trân trọng truyền thống được thể hiện qua các lời bình sử của Lê Văn Hưu Nhận xét về bút pháp: Trong các lời bình, tác giả đã kết hợp giữa bút pháp chính xác của sử học với nghệ thuật bình luận, nghị luận sắc sảo, cô đúc mà tái hiện được nổi bật chân dung lịch sử cũng như thể hiện được quan điểm đánh giá của mình trước các sự kiện. LỚP 10 VĂN TRƯỜNG THPT HUỲNH MẪN ĐẠT
File đính kèm:
- pham binh nhan vat lich su 10 nang cao.ppt