Bài giảng Ngữ văn 10: Chinh phục ngâm khúc

Tìm hiểu chung

1. Tác giả và dịch giả.
a. Tác giả.
- ĐặngTrần Côn (?), người làng Nhân Mục (Mọc)-Thanh Trì-HN.
- Sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Bản thân là người hiếu học và tài ba nhưng tính tình phóng túng không muốn ràng buộc vào chuyện thi cử.
- Ngoài Chinh Phụ Ngâm, còn có:
+ Bài phú "Trương Hàn Tư Thần Đô".
+ Bài thơ "Tiêu tương bát cảnh".

 

ppt19 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 610 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Ngữ văn 10: Chinh phục ngâm khúc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÀO MỪNG QUÝ THẦY CÔ VỀ DỰ TIẾT HỌC CỦA LỚP 10B HÔM NAYGV: Lâm Thành Khánh Chung Trường PTCS & PTTH Hương GiangKIỂM TRA BÀI CỦTìm hiểu chung1. Tác giả và dịch giả. a. Tác giả. - ĐặngTrần Côn (?), người làng Nhân Mục (Mọc)-Thanh Trì-HN. - Sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Bản thân là người hiếu học và tài ba nhưng tính tình phóng túng không muốn ràng buộc vào chuyện thi cử. - Ngoài Chinh Phụ Ngâm, còn có: + Bài phú "Trương Hàn Tư Thần Đô". + Bài thơ "Tiêu tương bát cảnh". b. Dịch giả. - Đoàn thị Điểm (1705-1748). - Quê: Làng Giai Phạm-Văn Giang- Xứ Kinh Bắc (nay là Hưng Yên). - Xuất thân trong một gia đình Nho sĩ (cha là Đoàn Doãn Nghi, anh là Đoàn Doãn Luân -> hai người đều đỗ Hương cống nhưng không ra làm quan chỉ ở nhà dạy học). - Bản thân bà là người có tài sắc, thông minh. Chồng bà, tiến sĩ Nguyễn Kiều từng ca ngợi: "Tài sắc nương tử xưa hiếm nay không", "xuất khẩu thành chương, bẩm chất thông minh". - Tác phẩm: Ngoài bản dịch CPN còn có Truyền kỳ tân phả và nhiều thơ phú khác. 2. Tác phẩm. a. Hoàn cảnh sáng tác. - Chinh Phụ Ngâm được viết bằng chữ Hán do Đặng Trần Côn sáng tác và Đoàn Thị Điểm dịch Nôm theo thể song thất lục bát. Thể thơ này rất phù hợp với tâm trạng nhung nhớ, cô đơn, buồn khổ triền miên của người chinh phụ. - CPNK được viết vào khoảng những năm 40 của thế XVIII. - Lúc này XHVN có những biến động lịch sử: Những cuộc tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến -> Các cuộc chiến tranh liên miên, đời sống của nhân dân bị bần cùng, tang thương-> Các cuộc khởi nghĩa nông dân. => Trước hiện thực cuộc sống, với những biến động lớn lao của lịch sử và với một sự cảm thông sâu sắc về thân phận con người, nhất là người phụ nữ -> Đặng Trần Côn đã sáng tác CPN. b. Nội dung và nghệ thuật. *) Nội dung. - Tác phẩm tập trung miêu tả tâm trạng nhớ nhung, buồn, cô đơn của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến nơi xa. - Qua đó, nó lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa, nó đòi quyền sống, đòi hạnh phúc lứa đôi thanh niên. *) Nghệ thuật. - Nếu như nguyên tác (chữ Hán-thể thất ngôn) thanhf công trong việc gợi tả những tâm trạng chân thực của người chinh phụ qua không gian và diễn biến thời gian, thì bản dịch đã sử dụng thể thơ song thất lục bát (chữ Nôm) rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng của người chinh phụ. - Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình rất tinh tế và sắc bén. II. Đọc - hiểu. 1. Tâm trạng cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ. a. Tám câu đầu. Dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcNgồi rèm thưa rủ thác đòi phen . Ngoài rèm thước chẳng mách tinTrong rèm , dường đã có đèn biết chăng?Đèn có biết dường bằng chẳng biết ,Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời ,Hoa kèn kia với bóng người khá thương. Động tác, cử chỉ: một mình ở nhà, lẻ loi ngoài hiên, đi đi lại lại, quanh quanh quẩn quẩn, buông rèm, cuốn rèm bao nhiêu lần...-> Những động tác biểu lộ tâm trạng cô đơn lẻ loi của nàng. Nỗi lòng không biết san sẻ cùng ai. - Điệp ngữ bắc cầu: + Đèn biết chăng - đèn có biết -> Biện pháp NT phổ biến trong đoạn trích và tác phẩm. + Non Yên - non Yên, băng trời - trời thăm thẳm...-> Diễn tả tâm trạng buồn triền miên kéo dài lê thê + Câu hỏi tu từ: Đèn biết chăng; đèn chẳng biết -> Làm lời than thở , nỗi khắc khoải đợi chờ và hy vọng, trong nàng day dứt không yên. -> Tâm trạng nhân vật trữ tình đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm da diết, Hình ảnh: ngọn đèn, hoa đèn cùng với hình ảnh cái bóng trên tường của chính mình gợi cho người đọc gợi nhớ đến hình ảnh ngọn đèn không tắt trong nỗi nhớ của người thiếu nữ trong bài ca dao quen thuộc: Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt? => Trong im lặng dằng dặc, dưới ánh đèn thăm thẳm, người chinh phụ trẻ chỉ còn thầm lặng chuyện trò với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình. b. Tám câu tiếp. Gà eo óc gáy sương năm năm trống,Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.. Sắt cầm gượng gảy ngón đànDây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng .Dùng cảnh vật thiên nhiên, tự nhiên để diễn tả tâm trạng, Tiếng gà eo óc báo hiệu canh năm, báo hiệu rằng người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt cả đêm. - Bóng cây hòe ngoài sân, trong vườn ngắn rồi dài, dài rồi lại ngắn. Thời gian của xa cách và nhớ thương - thời gian tâm trạng - một khắc, một giờ dài như một năm. - NT so sánh: như niên, tựa miền biển xa-> Cụ thể hóa mối sầu dằng dặc. - Từ gượng + với các động từ gảy, soi, đốt...gắn với các đồ vật đàn, hương, gương -> Những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm của người phụ nữ trẻ bây giờ tiến hành một cách miễn cưỡng, gượng gạo (đốt hương tìm sự thanh thản mà hồn lại mê man, bấn lọan, soi gương mà không cầm được nước mắt. Dây đàn, phím đàn chỉ nhắc cảnh chia li và nỗi lo chia lìa ám ảnh day dứt, phím chùng... 2. Tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ. - Hình ảnh: gió đông non Yên -> Ước lệ tượng trưng. + Gió đông: gió từ phương đông-> chỉ gió mùa xuân. + Non Yên: nơi chồng đi chinh chiến lập công. -> Người chinh phụ không biết gửi nỗi nhớ chồng với ai, muốn nhờ ngọn gió mùa xuân mang theo hơi ấm tình thương đưa đến "non Yên" những tình cảm nhung nhớ của mình. - Gió đông, non Yên là hình ảnh mang tính ước lệ-> Gợi không gian rộng lớn, một khoảng cách muôn trùng xa xôi giữa người chinh phu và người chinh phụ. Chính không gian, thời gian đó như càng nhân lên đến cao độ nỗi nhớ mong da diết, khắc khoải của người chinh phụ. - Câu thơ: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong + Thăm thẳm: Nỗi nhớ kéo dài vô tận và được cụ thể bằng hình ảnh so sánh đường lên bằng trời. + Đau đáu: Thể hiện sự day dứt, lo lắng không một chút yên lòng. Như có một cái gì đó hết sức xót xa, tội nghiệp. => Hai từ láy thăm thẳm, đau đáu gợi lên một nỗi nhớ nhung da diết, khôn nguôi, một nỗi nhớ luôn canh cánh trong lòng. Nó đã diễn tả rất chân thực nỗi lòng người chinh phụ nhớ chồng. - Hai câu: Cảnh buồn người thiết tha lòng Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun Cảnh buồn-> con người cũng buồn. ở đây, dịch giả đã gặp gỡ tác giả TK: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ Cả hai câu thơ trong CPN và TK đều đã thể hiện sâu sắc và tinh tế mqh giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh vật thiên nhiên và tâm trạng con người. Đó là sự hòa đồng tâm trạng giữa thiên nhiên và con người. Tuy nhiên, dường như câu thơ trong CPN còn thể hiện nỗi buồn nhớ khôn nguôi, nỗi buồn nhớ thiết tha đến nao lòng. => Hai câu thơ đã thể hiện được sự hòa đồng tâm trạng giữa con người và thiên nhiên.GV: Lâm Thành Khánh Chung Trường PTCS & PTTH Hương GiangIII. Kết luận.(Ghi nhớ-SGK) *) Củng cố dặn dò. - Đọc thuộc đoạn trích. - Nắm được tâm trạng của người chinh phụ có sự chuyển biến theo các cung bậc khác nhau. - Soạn bài mới: Lập dàn ý bài văn nghị luận. *) Hướng dẫn học bài mới. - LDY có tác dụng ntn? - Có những cách LDY nào?KÍNH CHÚC QUÝ THẦY CÔ VÀ CÁC EM HỌC SINH MỘT NGÀY HẠNH PHÚCGV: Lâm Thành Khánh Chung Trường PTCS & PTTH Hương Giang

File đính kèm:

  • pptTinh canh le loi cua nguoi chinh phu(5).ppt