Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những khía cạnh lý thuyết

Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên kỷ mới với cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để lại các dân tộc và những nhóm người còn phải sống trong nghèo khổ.

 

doc26 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 562 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những khía cạnh lý thuyết, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu Chương I: Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội những khía cạnh lý thuyết I. Tăng trưởng và công bằng: khái niệm, thước đo II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội 1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng 2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng 3. Tăng trưởng đi liền với công bằng Chương II: Việt Nam với bài toán tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội I. Quan điểm về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam II. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta III. Giải pháp cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo Lời Mở đầu Loài người đang háo hức đón chờ một thiên niên kỷ mới với cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh, thôi thúc mọi quốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh quyết liệt vì sự phát triển. Nhưng dường như không phải dân tộc nào và những công dân của nó cũng được chuẩn bị đầy đủ để tham gia cuộc đua. Một số ít quốc gia dân tộc sẽ vươn lên nhanh chóng và một số nhóm người sẽ trở nên giàu có, để lại các dân tộc và những nhóm người còn phải sống trong nghèo khổ. Theo báo cáo của Liên hợp quốc năm 1996, trong hơn ba thập kỷ qua, mặc dù nền kinh tế thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng: thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng lên 3 lần, GDP của thế giới tăng gần 6 lần, từ 4.000 tỷ USD năm 1960 lên 23.000 tỷ USD năm 1994, nhưng hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo trên thế giới đng ngày càng sâu thêm; thu nhập của 358 nhà tỷ phú trên hành tinh lớn hơn các khoản thu nhập tổng cộng của gần 2,3 tỷ người nghèo nhất, chiếm 45% dân số toàn thế giới; chênh lệch về thu nhập giữa các nước côn nghiệp với các nước đang phát triển đã tăng 3 lần. Trong hơn 30 năm qua, thu nhập của nhóm 20% người nghèo nhất hành tinh đã giảm xuống còn 1,4% thu nhập của thế giới. Trong khi đó phần thu nhập của nhóm 20% người giàu nhất đã tăng lên đến 85%. Điều đáng lưu ý là từ năm 1965 đến 1980 có 200 triệu người có thu nhập giảm dần và từ năm 1980 đến 1993 có trên 1 tỷ người rơi vào tình trạng trên. ở Mỹ, số của cải do 1% những người giàu nhất nắm giữ đã tăng từ 20% lên 30% của cải quốc gia trong thời kỳ 1975-1990. ở các nước đang phát triển như Goatêmala, Panama hoặc Braxin, thu nhập của những người giàu gấp 30 lần thu nhập của những người nghèo. Một điều hiển nhiên nữa là, không có tăng trưởng kinh tế thì không giải quyết được nghèo đói và bất công. Nhưng phải chăng đói nghèo và bất công là tất yếu trên con đường phát triển, là cái giá phải trả cho tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn luôn là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu là hoạch định chính sách ở mọi quốc gia. Tuy nhiên, vì sự hạn chế về hiểu biết và kiến thức nên tiểu luận của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự giúp đỡ và góp ý của thầy (cô) để em có thể hoàn thành tốt công việc nghiên cứu của mình. Em xin chân thành cảm ơn thầy Vũ Ngọc Pha – giáo viên giảng dạy bộ môn Triết học Mác - Lênin đã giúp đỡ, giảng giải rất nhiều để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này Chương I Tăng trưởng kinh tế và công bằng Xã hội những khía cạnh lý thuyết Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là mục tiêu và ước vọng của tất cả các dân tộc và của mọi thời đại. Tuy nhiên, việc đạt được mục tiêu kép này không dễ dàng, và trong thực tiễn đã có nhiều bằng chứng về sự đối lập giữa tăng trưởng và công bằng. Các chính sách dựa trên mục tiêu công bằng có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, một chính sách chỉ nhằm vào tăng trưởng có thể làm cho bất bình đẳng tăng lên. Vậy thế nào là mối quan hệ hợp lý giữa tăng trưởng và công bằng? Chương này bàn về những quan điểm lý thuyết chủ yếu về chủ đề này. I. Tăng trưởng và công bằng: Khái niệm, thước đo Trong các tài liệu kinh tế hiện nay, không ít các chương trình nghiên cứu về chủ đề này. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh té và công bằng xã hội được lý giải hoặc là dựa trên sự đối lập giữa hai phạm trù này, hoặc dựa trên sự thống nhất và tương hỗ căn bản giữa chúng. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thiên về tìm đến sự thống nhất giữa tăng trưởng và công bằng. Tuy nhiên, trong khi luận giải, có không ít sự nhầm lẫn giữa các phạm trù và chưa vạch ra được cơ chế đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng và công bằng. Sau đây, sẽ là kiến giải thế nào là sự thống nhất giữa tăng trưởng và công bằng xã hội, cơ chế nào đảm bảo cho những tương tác giữa tăng trưởng và công bằng. Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện một cách phổ quát theo quan điểm kinh tế học là sự tăng sản lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian. Tăng trưởng kinh tế theo nghĩa này thường được đo lường bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) theo thời gian hoặc tăng thu nhập theo đầu người. Nói cách khác tăng trưởng kinh tế chỉ thể hiện mặt lượng của nền kinh tế qua thời gian. Tuy nhiên, khi xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, khái niệm tăng trưởng kinh tế được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Walter Rostow đã dùng khái niệm tăng trưởng để đưa ra một lý thuyết tổng quát về phát triển. Ông chia quá trình phát triển của xã hội loài người thành năm giai đoạn tăng trưởng từ xã hội truyền thống đến xã hội hiện đại. Quan niệm này rõ ràng nhấn mạnh đến nội dung kinh tế của quá trình phát triển, hay nói cách khác, tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cho phát triển. Và cũng chính vì vậy, nó bộc lộ những khuyết điểm và làm nảy sinh nhiều câu hỏi. Thứ nhất, liệu tăng trưởng kinh tế có đưa đến phát triển hay không, nói cách khác, tăng trưởng kinh tế có bảo đảm giải quyết tất cả các vấn đề xã hội có liên quan đến sự phát triển hay không. Thứ hai, liệu tăng trưởng kinh tế có thể diễn ra liên tục trong những điều kiện bất bình đẳng xã hội hay không. Những câu hỏi này đã được các nhà nghiên cứu về phát triển trả lời và quan điểm khá phổ biến hiện nay là không thể đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển. Một nội dung quan trọng của phát triển là công bằng xã hội. Vậy khái niệm công bằng xã hội được hiểu như thế nào. Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế trong kinh tế học là cái có thể xác định bằng những con số, khái niệm công bằng xã hội mang tính chuẩn tắc, nghĩa là tuỳ thuộc nhiều vào quan điểm của con người. Chính những quan niệm khác nhau về bình đẳng đã dẫn đến những cách hiểu khác nhau về quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng. Trong kinh tế học, người ta sử dụng hai khái niệm khác nhau về bình đẳng hoặc công bằng. Khái niệm thứ nhất là công bằng theo chiều ngang, nghĩa là đối xử như nhau với những người có đóng góp như nhau. Khái niệm thứ hai là công bằng theo chiều dọc, nghĩa là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội khác nhau. Nếu như công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của chính phủ. Việc phân định và kết hợp công bằng theo chiều dọc và theo chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng xã hội thực sự. Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, hoàn chỉnh gồm cả các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá. Có thể có bình đẳng về phương diện kinh tế nhưng chưa chắc có bình đẳng về phương diện khác. Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập được phân bổ theo mức độ tham gia của các yếu tố (vốn, kĩ thuật, lao động, tài nguyên) vào quá trình sản xuất và do đó có thể đảm bảo sự bình đẳng về phương diện kinh tế. Tuy nhiên, các tầng lớp xã hội khác nhau có thể không có được những bình đẳng trong các hoạt động chính trị, xã hội. Chính nội hàm rộng của khái niệm bình đẳng xã hội đã làm cho vấn đề của khái niệm bình đẳng trở nên phức tạp. Cho đến nay, người ta vẫn chủ yếu sử dụng các công cụ đo lường mức độ bình đẳng trong phân phối thu nhập để biểu đạt bình đẳng xã hội nói chung. Thu nhập được phân phối theo các yếu tố của quá trình sản xuất (được gọi là phân phối theo chức năng), hoặc theo các nhóm dân cư ( được gọi là phân phối theo mức độ). Phân phối theo mức độ thường được sử dụng nhiều hơn. Phương pháp phổ biến nhất để đo mức độ bình đẳng trong phân phối là tính tỷ lệ thu nhập nhận được bởi nhóm 20% dân số lớp dưới cùng so với thu nhập mà nhóm 20% dân số lớp trên cùng nhận được. Nếu tỷ lệ này càng nhỏ, mức độ bất bình đẳng càng lớn, và ngược lại. Người ta còn có thể đo mức độ bất bình đẳng bằng cách so sánh thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm 5% người nghèo nhất với thu nhập của nhóm 10% hoặc nhóm 5% người giàu nhất. Phương pháp này chỉ cho thấy sự cách biệt về thu nhập giữa số ít thuộc tầng lớp giàu có nhất và số ít thuộc tầng lớp nghèo nhất mà không thể hiện được trạng thái bất bình đẳng xã hội nói chung. Chẳng hạn ,ở một xã hội, có thể có sự chênh lệch thu nhập rất lớn giữa một số nhỏ thuộc tầng lớp giàu có nhất và một số nhỏ thuộc tầng lớp đáy, nhưng có thể đại đa số dân cư nằm ở tầng trung lưu, nghĩa là có mức thu nhập không chênh lệch nhiều so với tầng lớp giàu có. Một trong những công cụ để biểu đạt mức độ bất bình đẳng được sử dụng trong kinh tế học là đường cong Lorenz mang tên nhà kinh tế học nêu lên học thuyết này. Đường cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông mà cạnh bên là phần trăm số thu nhập còn cạnh đáy biểu thị số phần trăm các nhóm dân sắp xếp theo thứ tự mức thu nhập tăng dần. Đường cong Lorenz chỉ ra tỷ lệ phần trăm của tổng thu nhập cộng dồn theo tỷ lệ phần trăm cộng dồn của người nhận. Phần trăm dân số Phần trăm dân số Một sự phân phối tương đối bình đẳng Một sự phân phối tương đối bất bình đẳng Đường cong Lorenz càng lớn, mức độ bất bình đẳng càng cao Đường chéo của hình vuông biểu thị mức độ bình đẳng hoàn toàn trong phân phối: cứ bao nhiêu phần trăm số người nhận thì được từng ấy phần trăm trong tổng thu nhập. Chẳng hạn, 10% dân cư được nhận đúng 10% tổng thu nhập. Đường cong Lorenz bắt đầu từ điểm gốc của đường chéo này và kết thúc ở đầu phía trên của đường chéo: 0% người nhận phải có được 0% thu nhập và 100% người nhận phải có 100% thu nhập. Trong trường hợp chỉ có 1 người nhận toàn bộ thu nhập, đường cong Lorenz sẽ chạy theo cạnh đáy và cạnh bên phải. Đó là trường hợp hoàn toàn bất bình đẳng. Nhìn chung, đường cong Lorenz nằm ở khoảng giữa đường chéo (hoàn toàn bình đẳng) và đường hoàn toàn bất bình đẳng. Mức độ cách xa đường chéo thể hiện mức độ bất bình đẳng. Hệ số Gini (Gini Coeficient) hay tỷ lệ tập trung Gini mang tên nhà thống kê học người Italia, là thước đo sử dụng phổ biến để xác định mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Hệ số này được xác định bằng cách lấy diện tích hình a được xác định bởi đường cong Lorenz và đường bình đẳng chia cho diện tích tam giác BCA. Điều này có nghiã là khoảng cách giữa đường cong Lorenz và đường bình đẳng càng lớn thì hệ số Gini càng cao. Hệ số này trải rộng từ 0 (hoàn toàn bình đẳng) đến 1 (hoàn toàn bất bình đẳng). Tuy vậy, việc sử dụng phương pháp này cũng có nhiều hạn chế, bởi vì diện tích hình a có thể như nhau (nghĩa là nhận được hệ số Gini giống nhau) nhưng được phân bổ các nhóm dân cư có mức thu nhập khác nhau là khác nhau, do đó hình dạng của đường cong Lorenz khác nhau. Như vậy, việc sử dụng đường cong Lorenz hoặc hệ số Gini chỉ cho phép hình dung một cách khái quát mức độ bất bình đẳng, còn phương pháp xem xét thu nhập của nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất chỉ cho biết chênh lệch giữa hai cực giàu nghèo của xã hội. Mặc dù trong nhiều trường hợp các kết quả không trùng khớp với nhau, song việc tính toán dựa trên các phương pháp này đều cho thấy xu hướng chung của mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Các phương pháp đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập như trên mặc dù rất hữu dụng nhưng chưa đủ để xác định công bằng xã hội ở một nước. Có thể có sự bất bình đẳng nhất định trong phân phối thu nhập song chưa chắc đã có công bằng xã hội xét về nhiều khía cạnh khác. Chẳng hạn, khi người ta có mức thu nhập ngang nhau nhưng sống trong những điều kiện khác nhau hoặc được cung cấp các dịch vụ khác nhau thì mức độ bất bình đẳng thực sự sẽ khác nhau. Vì vậy, các nhà nghiên cứu về phát triển đã đưa ra hàng loạt cách thức khác để xác định mức độ công bằng xã hội. Mức độ nghèo khổ. Để xác định được mức độ nghèo khổ, người ta phải đưa ra đường giới hạn nghèo khổ. Chẳng hạn, Liên hợp quốc đã xác định người có mức sống dưới 1 USD/ngày ở các nước đang phát triển thì được coi là nghèo khổ. Còn đối với các nước phát triển thì đường nghèo khổ được xác định là14 USD/người/ngày tính theo sức mua tương đương. Tuy vậy, đường danh giới nghèo khổ cũng chỉ là thước đo số lượng về mức độ bất bình đẳng. Cần bổ sung các tiêu chí chất lượng như mức độ cung ứng các dịch vụ, môi trường sống... Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người được coi là một chỉ số đánh giá trình độ phát triển của một nước ở một thời kỳ nhất định. Những nhu cầu cơ bản này bao gồm mức tối thiểu về dinh dưỡng, sức khoẻ, mặc, ở và các khả năng đảm bảo sự phát triển của cá nhân. Mặc dù có thể khác nhau về nhu cầu cơ bản, nhưng nhìn chung có thể đo lường các nhu cầu này. Một xã hội không được coi là công bằng khi đại đa số dân cư không được thoả mãn các nhu cầu cơ bản này bất luận mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người có thể cao. Chỉ số phát triển xã hội tổng hợp do Viện Nghiên cứu phát triển xã hội của Liên hợp quốc nêu ra bao gồm một danh sách 73 chỉ tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Trên thực tế, rất ít nước có thể thoả mãn các chỉ tiêu này. Vì vậy, đối với các nước đang phát triển, mặc dù có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng không phải bao giờ cũng đạt được chỉ số phát triển xã hội cao. Việc đưa vào chỉ số phát triển xã hội tổng hợp quá nhiều chỉ số đã gây khó khăn cho việc tính toán. Vì vậy, người ta nêu ra một chỉ số khác được gọi là “chỉ số vật chất của cuộc sống” (The Physical Quality of Life Index – PQLI). Chỉ số được tính toán dựa trên ba tiêu chí cơ bản là tuổi thọ dự báo, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỷ lệ xoá nạn mù chữ. Các tiêu chí này hiển nhiên là quá ít và không đề cập trực tiếp đến thu nhập. Tuy vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy, các nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao không phải bao giờ cũng đạt được PQLI cao. Nói cách khác, chỉ số này phản ánh những khía cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián tiếp nói lên mức độ công bằng xã hội của một nước. Một chỉ số khác tương tự được sử dụng nhiều trong thời gian gần đây là chỉ số phát triển con người (HDI) do chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra và sử dụng lần đầu tiên vào năm 1990. Chỉ số này trải từ 0 (mức độ phát triển con người thấp nhất) đến 1 (mức độ phát triển con người cao nhất) và được tính toán dựa trên ba chỉ số về phát triển là tuổi thọ, kiến thức (đo bằng tuổi bình quân của người lớn biết chữ và số năm đi học) và thu nhập (được đo bằng thu nhập bình quân đầu người thực tế đã được điều chỉnh). Như vậy, so với PQLI, mặc dù HDI cũng chỉ dựa trên ba tiêu chí nhưng chỉ tiêu này có tính bao quát hơn do nó thể hiện được ba khía cạnh quan trọng nhất của con người về tuổi tác, trí tuệ và mức sống. Theo chỉ số này năm 1990, Ghinê là một nước có trình độ phát triển thấp nhất (0.050) và Canađa là nước có trình độ phát triển cao nhất (0.982), Việt Nam thuộc nhóm phát triển trung bình (0.557) vào thời điểm năm 1994. II. Các quan điểm về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và Công bằng xã hội Việc xác định rõ khái niệm và các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội mặc dù phức tạp nhưng vẫn chưa giải quyết được vấn đề cơ bản là giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội có quan hệ với nhau như thế nào. Phải chăng đó là hai quá trình đối nghịch? Nếu vậy, tăng trưởng không thể đưa đến phát triển xã hội. Nếu không đối nghịch thì tự thân tăng trưởng kinh tế có tạo ra công bằng xã hội hay không và nó có thể xảy ra đồng thời với công bằng xã hội hay không. Công bằng xã hội chỉ là hệ quả của tăng trưởng kinh tế hay còn là điều kiện tiền đề của nó. Đó là những vấn đề đã được thảo luận rộng rãi trong kinh tế học phát triển và kinh tế học phúc lợi cũng như trong các ngành khoa học xã hội nhân văn khác trong nhiều thập kỷ. Những quan điểm về vấn đề này có thể khái quát thành một số trường phái chính: 1. Tăng trưởng kinh tế tất yếu dẫn đến bất bình đẳng. Những người theo quan điểm này cho rằng tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bằng bất bình đẳng trong phân phối và làm gia tăng sự bất bình đẳng này. Lập luận của họ là: chỉ tầng lớp có thu nhập cao mới có khả năng tích luỹ và do đó là nguồn gốc đảm bảo đầu tư chủ yếu cho tăng trưởng nên bất kỳ sự phân phối nào làm giảm mức độ tập trung thu nhập này đều ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Lập luận này không phải không có cơ sở thực tiễn lịch sử của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhờ quá trình tích tụ và tập trung tư bản kèm theo sự bần cùng hoá một tầng lớp đông đảo trong xã hội mà cuộc cách mạng công nghiệp có được lực đẩy phi thường. Nhà kinh tế học cổ điển Anh, David Ricardo, đã lập luận theo hướng đó. Ông cho rằng, tăng trưởng kinh tế được đảm bảo bởi mức độ tiết kiệm cao của tầng lớp tư sản, và do đó, ông chống lại việc phân phối lại thu nhập bất lợi cho giai cấp tư sản. C.Mác cũng giải thích sự phát triển của chủ nghĩa tư bản bằng lập luận tương tự, mặc dù ông phản đối trật tự hiện có của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ ra quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến sự bất bình đẳng lớn đến mức nó trở thành lực cản đối với sự phát triển tiếp theo. Th áng 1-1993, khi Bill Clinton đắc cử tổng thống Mỹ và bước vào Nhà trắng, thì trong ê-kíp của ông có một số nhân vật quan trọng là môn đồ của học thuyết Keynes, và chính những người này đã đề xuất các chính sách nhằm lái Hoa Kỳ ra khỏi quỹ đạo của chủ nghĩa tự do mới mà các chính quyền của R. Reagan và G. Bush đã thi hành từ 1981 đến1992. Tuy nhiên, trước sức ép của các thế lực tài chính, chính quyền Clinton đã phải chuyển sang lập trường “trung tâm” , nghĩa là một mặt tiếp tục thực hiện tự do hoá về kinh tế theo quan điểm của chủ nghĩa tự do mới, mặt khác thi hành một số chính sách xã hội đã hứa hẹn trong cương lĩnh tranh cử năm 1992 (như tạo thêm việc làm, cải tiến chế độ tiền lương và trợ cấp xã hội, chế độ bảo hiểm y tế và giáo dục, v.v.) nhằm tranh thủ lá phiếu của đa số cử chi thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp nghèo trong cuộc bầu cử lần sau. Sang nhiệm kỳ thứ hai, chính quyền Clinton lại đưa ra sáng kiến về việc xây dựng “Nền kinh tế mới”, dựa trên những thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, trước hết là công nghệ thông tin, đồng thời tiếp tục chi từ ngân sách của nhà nước cho các chương trình phúc lợi xã hội. Nhờ áp dụng những chính sách nói trên, nền kinh tế Mỹ đã duy trì được 100 tháng tăng trưởng là thời kỳ tăng trưởng dài nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai; tỉ lệ thất nghiệp giảm từ 7,1% năm 1992 xuống 4% năm 1999. Tương tự lập trường “trung tâm” của Clinton, thủ tướng Anh Tony Blair cũng bắt đầu ngả sang lý thuyết về “Con đường thứ ba” (The third way) do một nhà khoa học Anh là Anthony Giddens nêu ra trong cuốn sách cùng tên xuất bản năm 1998. Lý thuyết về “Con đường thứ ba” có tham vọng trở thành triết lý mới về mối quan hệ giữa cái kinh tế và cái xã hội trong chủ nghĩa tư bản theo hướng kết hợp những mặt mạnh và triệt tiêu những mặt yếu của cả mô hình Keynes lẫn mô hình chủ nghĩa tự do mới Những lập luận đầy đủ nhất về tăng trưởng đối lập với công bằng được trình bày trong lý thuyết của Athur Lewis bàn về các nước đang phát triển. Dựa trên giả thuyết của Ricardo và C.Mác cho rằng, lao động có thể được sử dụng với số lượng không hạn chế ở mức tiền lương thực tế cố định chứ không phải là một nguồn lực khan hiếm, Lewis đã xây dựng mô hình phát triển kinh tế với nguồn lao động không có giới hạn hay mô hình lao động dư thừa. Trong mô hình này, ông cho rằng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập sẽ tăng trong thời kỳ đầu và chỉ sau khi đã đạt đến một sự phát triển cao mới giảm đi. Theo Lewis, bất bình đẳng không chỉ là kết quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế mà đồng thời còn là nguyên nhân của tăng trưởng. Bởi lẽ phân phối có lợi cho những người có thu nhập cao sẽ tạo mức tiết kiệm cao. Ông lập luận “vấn đề trung tâm trong lý thuyết phát triển kinh tế đó là hiểu được quá trình mà trong đó một cộng đồng xã hội trước đây tiết kiệm và đầu tư khoảng 4 – 5% thu nhập quốc dân chuyển thành một nền kinh tế trong đó tiết kiệm tình nguyện tăng lên 12 đến 15% thu nhập quốc dân hoặc lớn hơn”. Nói cách khác, sự phát triển phụ thuộc vào 10% dân số đang thu được 40% hoặc lớn kơn thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, Lewis không coi bất bình đẳng trong thu nhập là vĩnh viễn, mà chỉ trong giai đoạn đầu của sự phát triển, khi lao động dư thừa chưa được chuyển hết sang khu vực hiện đại. Mô hình Lewis mở rộng của Fei-Ranis đã giải thích điểm này: khi toàn bộ lao động dư thừa cuối cùng bị thu hút vào các công việc của các khu vực hiện đại, trở thành nguồn lực khan hiếm của sản xuất và nhu cầu lao động ngày càng tăng đòi hỏi tăng lương thực tế ngoài mức sử dụng cận biên. Chính việc tăng lương này sẽ dẫn tới giảm bất bình đẳng và nghèo khổ. Mô hình Lewis cho rằng bất bình đẳng góp phần vào phát triển kinh tế và các cố gắng nhằm phân phối lại “một cách hấp tấp và vội vã” sẽ có nguy cơ bóp chết tăng trưởng kinh tế. Sự tăng thêm nhất thời của bất bình đẳng là cái giá phải trả cho thành công và nếu tất cả mọi người biết chờ đợi phát triển đi theo tiến trình của nó, họ sẽ được lợi đúng lúc, Mô hình Lewis đã được thừa nhận khá rộng rãi ở các nước đang phát triển trong nhiều thập kỷ. Tuy vậy, nó cũng bộc lộ những khuyết điểm và bị phê phán từ nhiều phía. Thứ nhất, nó dựa trên giả thuyết của mô hình tăng trưởng kinh tế cổ điển theo đó tăng trưởng là hàm số của hai yếu tố vốn và lao động. Ngày nay, người ta thấy rằng mô hình này chỉ giải thích được 10% mức tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, ngay cả khi tiết kiệm có vai trò quan trọng như Lewis giả định thì cũng chưa có gì đảm bảo cho mức tiết kiệm đó được đầu tư (có thể đầu tư ra nước ngoài hoặc tăng mức tiêu dùng). Thứ ba, khu vực hiện đại có khả năng thu hút hết lao động dư thừa hay không và thời gian đó kéo dài bao lâu, liệu nó có đi liền với tăng trưởng không. Mô hình Lewis thực ra cũng chứa đựng những yếu tố của mô hình dạng ầ của Kuznets – một mô hình được xây dựng trên sự khảo nghiệm thực tế của một số nước do nhà kinh tế học Mỹ Kuznets tiến hành vào năm 1955. 2. Ưu tiên công bằng hơn tăng trưởng. Một xã hội công bằng luôn luôn là ước muốn của con người ở mọi thời đại. Vì vậy, thật dễ hiểu khi có không ít tư tưởng và học thuyết nhấn mạnh đến công bằng xã hội hơn là tăng trưởng kinh tế. Một xã hội công bằng là cái cần đạt tới, vì vậy đạt tới nó càng nhanh càng chứng tỏ xã hội phát triển nhanh. Quan niệm này chi phối tất cả các học thuyết chú trọng công bằng mặc dù mức độ và hình thức thể hiện không giống nhau. Có hai mô hình lý thuyết và chiến lược phát triển nhấn mạnh đến công bằng hơn tăng trưởng. Phân phối trước, tăng trưởng sau. Đây là quan điểm chủ đạo của đường lối phát triển kinh tế ở nhiều nước đi theo khuynh hướng xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Quan điểm này dựa trên lập luận là việc tập trung tài sản vào một nhóm người là trở ngại cho quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Bất bình không chỉ được coi là sự tha hoá cuả phát triển mà còn cản trở sự phát triển. Vì vậy, việc phân phối lại là điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng. Theo quan điểm này, các hình thức cách mạng như tước đoạt người giàu, lấy của người giàu chia cho dân nghèo, tịch thu ruộng đất của địa chủ, tiêu diệt các tầng lớp tư sản và kinh doanh giàu có đã được thực hiện. Trong giai đoạn tiếp theo, vấn đề phân phối là nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản xuất, có tác dụng mở đường và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cơ chế phân phối đã được thiết lập sao cho đảm bảo thu nhập phụ thuộc vào đóng góp lao động. Tuy nhiên, nền tảng cơ bản của các quan hệ phân phối vẫn là chủ nghĩa bình quân, duy trì bình đẳng theo quan điểm bình quân. Nhà nước phục vụ các chính sách phúc lợi rộng rãi, bất chấp trình độ phát triển kinh tế đã đạt được. Mô hình này, như lịch sử đã chứng minh, mặc dù là nguồn cổ vũ tinh thần to lớn đối với các tầng lớp nhân dân, đặc biệt trong thời kỳ đầu, đã không có cơ sở đứng vững. Công bằng trong điều kiện như vậy hoặc đã trở thành lực cản tăng trưởng kinh tế hoặc làm nảy sinh những bất công lớn hơn giữa một bên là những người lao động và một bên là bộ máy quyền lực. Những nỗ lực sửa đổi mô hình này trên nền tảng nhận thức không đúng như trên đã không thành công và các nước đi theo nó đã phải chuyển sang kinh tế thị trường, ở đó, tăng trưởng và bất bình đẳng được xem xét từ những quan điểm tiếp cận khác. Lấy con người làm trung tâm. Phát triển lấy con người là trung tâm không phải là khái niệm mới mẻ. Bản thân mô hình phân phối trước tăng trưởng cũng xuất phát từ ý tưởng lấy con người làm trung tâm. Tuy nhiên, nội dung thực sự của chiến lược phát triển lấy con người làm trung tâm như một hệ quan điểm phát triển phân biệt với các mô hình khác đã được David C.Korten trình bày khá rõ trong cuốn “Bước vào thế kỷ XXI: hành

File đính kèm:

  • docTieu luan triet hoc ve tang truong KT.doc