Cuốn sách này không phải là một tài liệu đầy đủ về lí luận dạy học môn toán (hay
Phương pháp dạy học môn toán, như ta vẫn thường gọi). Nó không đề cập hết các nội dung
về Phương pháp dạy học môn toán với tư cách là một ngành khoa học hay với tư cách là
một bộ môn trong các trường sư phạm. Một giáo trình đầy đủ như vậy đang được tác giả cố
gắng hoàn thiện trong một vài năm tới.
126 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu Phương pháp dạy học môn toán ở trường phổ thông, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
KHOA TỐN
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MƠN TỐN
Ở TRƯỜNG PHỔ THƠNG
(Các tình huống dạy học điển hình)
TP.HCM – 2005
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
2
LỜI NÓI ĐẦU
Cuốn sách này không phải là một tài liệu đầy đủ về lí luận dạy học môn toán (hay
Phương pháp dạy học môn toán, như ta vẫn thường gọi). Nó không đề cập hết các nội dung
về Phương pháp dạy học môn toán với tư cách là một ngành khoa học hay với tư cách là
một bộ môn trong các trường sư phạm. Một giáo trình đầy đủ như vậy đang được tác giả cố
gắng hoàn thiện trong một vài năm tới.
Tài liệu này chỉ trình bày hai nội dung chủ yếu nhất của chương trình phương pháp
dạy học môn toán – phần đại cương, mà tác giả đã giảng dạy cho sinh viên năm thứ ba
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh từ nhiều năm nay. Đó là một số vấn đề
cơ bản liên quan đến phương pháp dạy học học theo định hướng tích cực hoá hoạt động của
học sinh, và đặc biệt là các tình huống điển hình mà ta thường gặp trong thực tế dạy học
toán ở trường phổ thông.
Việc xuất bản tài liệu này nhắm tới các mục đích chủ yếu sau đây:
− Cập nhật một số nội dung kiến thức mới, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học
giáo dục nói chung và định hướng đổi mới phương pháp ở trường phổ thông nói riêng;
− Trình bày chi tiết hơn, sâu hơn một số nội dung liên quan tới các tình huống điển
hình trong dạy học môn toán ở trường THPT với nhiều ví dụ minh hoạ rút ra từ thực tế dạy
học;
− Tạo thuận lợi cho việc đổi mới cách dạy và cách học ở trường Đại học Sư phạm, hạn
chế tối đa việc ghi chép của sinh viên. Từ đó nó cho phép dành nhiều thời gian hơn cho
hoạt động thực hành như soạn bài và tập giảng, xem và trao đổi về giờ giảng của giáo viên
phổ thông qua băng đĩa, dự giờ của giáo viên ở trường Trung học phổ thông ngay từ đầu
năm thứ ba và chính trong quá trình học tập bộ môn Phương pháp dạy học. Nó cũng tạo
thuận lợi cho việc tổ chức học tập dưới hình thức thảo luận, xêmina, làm bài tập theo
nhóm,
Tác giả hy vọng việc đào tạo đan xen giữa lí thuyết và thực hành như vậy sẽ cho phép
sinh viên nắm vững hơn kiến thức và rèn luyện tốt hơn kĩ năng sư phạm.
Hy vọng rằng đây cũng là một tài liệu tham khảo có ích cho giáo viên phổ thông trong
xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Tác giả rất biết ơn và mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để
hoàn thiện dần các nội dung được đề cập trong tài liệu.
Tác giả
Lê Văn Tiến
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
3
Phần 1
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TOÁN
Những vấn đề cơ bản trong lí luận dạy học tổng quát1 đã được đề cập trong học phần
Giáo dục học đại cương dành cho sinh viên năm thứ hai Đại học Sư phạm. Vấn đề là vận
dụng chúng vào dạy học môn toán như thế nào. Để trả lời câu hỏi này, trước hết phải làm rõ
đặc thù của dạy học môn toán và sự tương thích với lí luận dạy học nói chung. Điều này sẽ
được đề cập trong một giáo trình đầy đủ về phương pháp dạy học môn toán mà tác giả đang
cố gắng hoàn thiện trong vài năm tới. Trong phạm vi tài liệu này, sau khi sơ lược vài khái
niệm cơ bản, ta sẽ tập trung vào một số vấn đề về phương pháp dạy học toán theo định
hướng tích cực hoá hoạt động của học sinh. Sau đó, ta sẽ quan tâm đặc biệt hơn về dạy học
đặt và giải quyết vấn đề.
1. Khái niệm phương pháp dạy học
Thuật ngữ phương pháp, theo tiếng Hy Lạp “Méthodos”, có nghĩa là con đường, cách
thức thực hiện một kiểu nhiệm vụ nào đó, nhằm đạt tới kết quả ứng với mục đích đã vạch ra.
Dạy học là khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người học nhằm mục đích
làm cho người học lĩnh hội được các kiến thức và kĩ năng, phát triển năng lực trí tuệ và phẩm
chất đạo đức, thẩm mĩ, Hoạt động dạy học bao hàm trong nó hoạt động dạy và hoạt động
học. Tuy nhiên, hai hoạt động này không diễn ra một cách song song tách rời mà xen lẫn vào
nhau, tương tác lẫn nhau. Như vậy, có thể xem dạy học như là một kiểu nhiệm vụ mà giáo
viên và học sinh cùng có trách nhiệm hợp tác thực hiện.
Phương pháp dạy học là cách thức thực hiện kiểu nhiệm vụ “Dạy học” của cặp người
dạy - người học nhằm đạt được các mục đích dạy học xác định.
2. Phân loại tổng thể các phương pháp dạy học
Hiện nay có nhiều hệ thống phân loại khác nhau về các phương pháp dạy học, nhưng
chưa có một hệ thống phân loại nào thực sự hoàn chỉnh và tối ưu (vả lại xây dựng một hệ
thống phân loại như vậy dường như là không thể và không có nhiều ý nghĩa về mặt thực
tiễn). Tuy nhiên, dù có những khiếm khuyết của nó, nhưng mỗi hệ thống phân loại lại cho ta
thấy rõ hơn một khía cạnh nào đó về các phương pháp dạy học.
Nếu dựa vào tiêu chí phân loại là vai trò của giáo viên, vai trò của học sinh và đặc trưng
của tri thức cần truyền thụ, ta có một cách phân chia tổng thể các phương pháp dạy học theo
ba nhóm: Phương pháp giáo điều, phương pháp truyền thống và phương pháp tích cực.
2.1. Phương pháp giáo điều
– Giáo viên: là người có quyền lực tuyệt đối, thông báo, áp đặt kiến thức2 một cách trực
1 Quy trình dạy học, phương pháp dạy học, nguyên tắc dạy học, hình thức tổ chức dạy học,
2 Thực ra, có một sự khác biệt cơ bản giữa Tri thức và Kiến thức (tham khảo lí thuyết chuyển hóa sư phạm
(transposition didactique) của Y. Chevallard, 1991). Tuy nhiên, giáo trình này không có sự phân biệt rạch ròi hai
khái niệm.
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
4
tiếp cho học sinh (theo kiểu giảng đạo). Giáo viên chi phối toàn bộ các mối quan hệ
giáo dục.
– Học sinh: có vai trò lu mờ, thụ động nghe, học thuộc và ghi nhớ những điều mà giáo
viên thông báo mà không cần hiểu “nghĩa” của kiến thức tiếp thu được.
– Kiến thức : được cho trực tiếp bởi giáo viên dưới dạng có sẵn đã “phi hoàn cảnh hoá”,
“phi thời gian hoá” và “phi cá nhân hoá”. Nó chỉ mang “nghĩa hình thức”.
– Giáo viên có quyền lực tuyệt đối trong việc đánh giá học sinh.
2.2. Phương pháp truyền thống
a) Đặc trưng tổng quát
• Giáo viên : vẫn giữ vị trí trung tâm của hệ thống dạy học, có trách nhiệm truyền đạt
kiến thức cho học sinh, cho một vài ví dụ minh họa hay một vài bài toán mẫu, sau đó yêu
cầu học sinh áp dụng kiến thức vào việc giải quyết các tình huống tương tự với tình huống
mà giáo viên đã trình bày và giải quyết.
Trong kiểu dạy học này, giáo viên quan tâm chủ yếu tới trình bày của mình sao cho
chính xác, sáng sủa, rõ ràng, logic và dễ hiểu, mà ít quan tâm đến cái mà học sinh cần, cái
mà học sinh nghĩ và hoạt động của chính người học. Để cho học sinh có thể hiểu, ghi nhớ và
áp dụng tốt kiến thức đã trình bày, giáo viên thường chú ý đảm bảo một số nguyên tắc và
phương pháp sư phạm tổng quát, chẳng hạn : đảm bảo tính hệ thống, tính trực quan, tính vừa
sức, Từ đó, tăng cường sử dụng các thiết bị dạy học3; coi trọng việc luyện tập và ôn tập ;
chú ý đặc biệt đến kĩ thuật đặt câu hỏi,
• Học sinh: học theo kiểu bắt chước và thường thụ động tiếp thu. Họ cố gắng ghi nhớ
và áp dụng đúng “mẫu” mà giáo viên đã trình bày. Hoạt động đích thực của học sinh (nếu
có) chỉ diễn ra khi trả lời một số câu hỏi, làm bài tập áp dụng hay thực hiện một chứng minh
định lí, theo yêu cầu của giáo viên.
• Kiến thức: vẫn được cho trực tiếp bởi giáo viên và thường là dưới dạng có sẵn đã “phi
hoàn cảnh hoá”, “phi thời gian hoá”, “phi cá nhân hoá” và mang “nghĩa hình thức”.
• Giáo viên có vai trò gần như tuyệt đối trong việc đánh giá học sinh.
b) Các phương pháp dạy học truyền thống
Hiện nay, ngay trong bản thân các phương pháp dạy học truyền thống, cũng có nhiều
hệ thống phân loại khác nhau, nhưng chúng vẫn chưa hoàn chỉnh và chưa có được sự thống
nhất trong cộng đồng các nhà sư phạm. Dưới đây, chỉ giới thiệu tóm tắt một trong các hệ
thống phân loại đó.
– Nhóm các phương pháp dùng lời : Thuyết trình; Đàm thoại; Làm việc với sách ;
– Nhóm các phương pháp trực quan: Biểu diễn vật thật, vật tượng hình hay tượng
trưng; Xem băng ghi hình, phim đèn chiếu,
– Nhóm các phương pháp thực hành: Luyện tập ; Thực nghiệm, quan sát và dự đoán.
Trong thực tế dạy học, các phương pháp thuộc ba nhóm trên thường được sử dụng xen
kẽ nhau, lồng vào nhau.
3 Sơ đồ, biểu đồ, vật thật, phim ảnh, phần mềm MS Powerpoint,
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
5
Ở đây, ta không đi sâu nghiên cứu các phương pháp dạy học truyền thống, vì chúng đã
được đề cập khá chi tiết trong bộ môn Giáo dục học.
2.3. Sư phạm tích cực và phương pháp dạy học tích cực
Ngay từ đầu thế kỉ 20 các nhà tâm lí hay sư phạm như Dewey, Parkhust, Dalton ở Mỹ,
Freinner ở Pháp, Claparède ở Thuyï Sĩ, Montessori ở Ý, Decroly ở Bỉ đã quan niệm rằng :
Cần phải đặt học sinh vào vị trí trung tâm của hoạt động dạy học, phải xuất phát từ lợi ích
của học sinh và những điều mà họ quan tâm. Đó chính là thời điểm mà người ta bắt đầu nói
về “sư phạm tích cực”. Tuy nhiên, gần như suốt thế kỉ 20, sư phạm này chỉ sống một cách lay
lắt bên cạnh sư phạm truyền thống.
Có nhiều xu hướng sư phạm tích cực khác nhau như : Sư phạm tương tác, Sư phạm
khám phá, Sư phạm dự án, Những xu hướng này có những nét tương đồng nhưng cũng có
nhiều khác biệt cơ bản. Trong phạm vi tài liệu này, ta không đi sâu nghiên cứu chúng.
Ở đây, thuật ngữ “Phương pháp dạy học tích cực” (hay gọi tắt là Phương pháp tích cực)
được hiểu là các phương pháp dạy học thể hiện tư tưởng của các xu hướng sư phạm tích cực4,
mà sau đây ta sẽ nêu lên một số đặc trưng cơ bản của nó.
Đặc trưng của phương pháp tích cực :
– Giáo viên tự nguyện rời bỏ vị trí trung tâm. Họ chỉ còn là người đạo diễn, trọng tài, cố
vấn, tổ chức cho học sinh tự mình kiến tạo kiến thức mới.
– Học sinh trở thành chủ thể, thành trung tâm được định hướng để tự mình xây dựng kiến
thức, chứ không phải được đặt trước những kiến thức có sẵn của sách giáo khoa, hay bài
giảng áp đặt của giáo viên.
– Nói chung, kiến thức được khám phá bởi người học có thể còn phiến diện, khiếm
khuyết, chưa đầy đủ, chưa hoàn chỉnh như tri thức ta muốn truyền thụ. Chính lớp học và giáo
viên sẽ giúp họ hoàn chỉnh kiến thức này.
– Kiến thức không còn được truyền thụ trực tiếp bởi giáo viên mà do học sinh khám phá
ra qua quá trình hoạt động giải quyết các vấn đề (có thể có sự giúp đỡ của giáo viên). Trong
trường hợp này, kiến thức mới nảy sinh như là phương tiện hay kết quả của hoạt động giải
quyết vấn đề của học sinh.
– Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.
– Học sinh được tạo điều kiện tham gia vào việc đánh giá không chỉ sản phẩn cuối cùng
(như lời giải bài toán, ), mà cả quá trình mò mẫm, tìm kiếm cách giải quyết vấn đề, đánh
giá cách tổ chức và giải quyết vấn đề, tinh thần và thái độ làm việc, khả năng sáng tạo,
của chính mình hay của bạn. Từ đó, phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học
của mình.
2.4. Phương pháp tích cực và dạy học theo định hướng tích cực hoá hoạt động của học
sinh
4 Phân biệt giữa xu hướng sư phạm và phương pháp chỉ là tương đối, vì thực ra cùng là khái niệm phương pháp
nhưng có thể xét ở ba cấp độ khác nhau :
- Ở cấp độ quan điểm, tư tưởng hay cách tiếp cận tổng quát, thì ta nói đến xu hướng sư phạm (chẳng hạn, sư phạm tương
tác, sư phạm khám phá,...).
- Ở cấp độ quy trình, hay các thao tác và cách thức thực hiện cụ thể thì ta thường dùng thuật ngữ “Phương pháp”.
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
6
Hiện nay vẫn chưa có sự nhất trí hoàn toàn về việc sử dụng thuật ngữ “Phương pháp
tích cực”. Có thể tính đến ba quan niệm nổi trội nhất sau đây:
• Quan niệm thứ nhất: Dùng thuật ngữ “Phương pháp tích cực” để chỉ tất cả những
phương pháp dạy học cho phép phát huy được tính tích cực học tập của học sinh.
Quan niệm này dựa trên khái niệm “tính tích cực học tập của học sinh” mà theo G. I.
Sukina (1977) những dấu hiệu cơ bản của nó là: Học sinh khao khát học tập, hay nêu thắc
mắc, chủ động vận dụng linh hoạt kiến thức đã học, tập trung chú ý và kiên trì giải quyết
vấn đề,
Sukina5 cũng đã phân chia tính tích cực ra làm ba cấp độ:
1. Tính tích cực bắt chước, tái hiện: Xuất hiện do tác động kích thích bên ngoài (yêu
cầu của giáo viên), trong trường hợp này, người học thao tác trên các đối tượng, bắt chước
theo mẫu hoặc mô hình của giáo viên, nhằm chuyển đối tượng từ ngoài vào trong theo cơ
chế “Hoạt động bên ngoài và bên trong có cùng cấu trúc”. Nhờ đó, kinh nghiệm hoạt động
được tích luỹ thông qua kinh nghiệm của người khác.
2. Tính tích cực tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề đặt ra, tìm kiếm các phương thức hành
động trên cơ sở có tính tự giác, có sự tham gia của động cơ, nhu cầu, hứng thú và ý chí của học
sinh.
3. Tính tích cực sáng tạo: thể hiện khi chủ thể nhận thức tự tìm tòi kiến thức mới, tự tìm
ra phương thức hành động riêng và trở thành phẩm chất bền vững của cá nhân. Đây là mức
độ biểu hiện cao nhất của tính tích cực.
Như vậy, theo quan niệm này, ngay cả trong tình huống học tập bằng “bắt chước” vẫn
cần thiết và có thể phát huy được tính tích cực học tập của học sinh.
• Quan niệm thứ hai : Tư tưởng tương tự như quan niệm thứ nhất, nhưng tránh dùng
thuật ngữ “Phương pháp tích cực” hay “Phương pháp dạy học tích cực”, mà sử dụng một cách
nói khá khái quát như “Phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hoá hoạt động của học
sinh” hay theo định hướng “hoạt động hoá người học”,
• Quan niệm thứ ba: Dùng thuật ngữ “Phương pháp tích cực” theo nghĩa chặt, để chỉ
những phương pháp dạy học có những đặc trưng chủ yếu mà chúng tôi đã nêu ở trên. Như
vậy, theo quan niệm này, phương pháp tích cực và phương pháp dạy học theo định hướng tích
cực hoá hoạt động của học sinh không đồng nhất. Nói cách khác, có thể có những phương
pháp dạy học cho phép phát huy được tính tích cực học tập của học sinh, nhưng không phải là
phương pháp tích cực. Tài liệu này được biên soạn dựa trên quan niệm thứ ba.
Theo quan niệm này, một trong các điều kiện cần của phương pháp tích cực xuất phát
từ đặc trưng của việc xây dựng kiến thức: kiến thức phải được kiến tạo bởi học sinh qua quá
trình hoạt động giải quyết các vấn đề của chính họ (có thể có sự giúp đỡ ít nhiều của giáo
viên).
Để hiểu rõ hơn quan niệm này, ta xét tiến trình dạy học một định lí toán học (kiến thức
mới cần lĩnh hội) sau đây:
5 Trích dẫn theo Nguyễn Lan Phương (2000).
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
7
- Bước 1: Trình bày định lí (giáo viên phát biểu định lí hoặc học sinh đọc định lí có sẵn
trong sách giáo khoa).
- Bước 2: Học sinh chứng minh định lí (có thể có sự giúp đỡ của giáo viên nhờ vàp
phương pháp vấn đáp gợi mở).
- Bước 3: Học sinh làm bài tập củng cố vận dụng định lí (có thể có sự giúp đỡ của giáo
viên nhờ vào phương pháp vấn đáp gợi mở).
Các phương pháp dạy học được sử dụng bởi giáo viên ứng với tiến trình này không được
xem là phương pháp dạy học tích cực, vì kiến thức mới cần xây dựng là nội dung định lí đã
được thông báo trực tiếp mà không phải do học sinh kiến tạo nên. Tuy nhiên, chúng có thể cho
phép phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong các pha chứng minh định lí hay giải bài
tập áp dụng.
Chú ý rằng, phương pháp tích cực hiểu theo nghĩa chặt như vậy cũng có tính tương đối.
Nếu quan niệm rằng khi học sinh tự mình chứng minh được định lí (thậm chí có thể chứng
minh bằng nhiều cách khác nhau) thì học sinh đã tự khám phá ra một dạng tri thức mới khác,
chẳng hạn tri thức phương pháp. Như vậy, phương pháp dạy học tương ứng phải là phương
pháp tích cực ! Quả thực, trong nhiều trường hợp việc khám phá các cách chứng minh khác
một kết quả đã biết cũng đòi hỏi tính tích cực, chủ động và sáng tạo.
Như vậy, để không rơi vào tình huống lưỡng lự này, cần phải xác định rõ những kiến
thức mới, trọng tâm cần xây dựng trong bài học. Đó phải là những kiến thức hình thành nên
phần chủ yếu của mục tiêu bài học, mà giáo viên phải làm rõ trong phần mục tiêu (hay mục
đích yêu cầu) của giáo án.
Hơn nữa, ở đây, khái niệm Kiến thức mới được hiểu theo nghĩa : đó có thể là kiến thức
mà học sinh chưa từng có (một định nghĩa khái niệm, một định lí, một phương pháp giải
toán,), cũng có thể là những kiến thức cũ nhưng được điều chỉnh, tổ chức lại hoặc lấy một
nghĩa mới.
Chẳng hạn, cho đến lớp 12 học sinh đã biết nhiều phương pháp chứng minh ba điểm
thẳng hàng. Nếu bây giờ họ tự thực hiện được một sự tổng hợp các phương pháp, phân tích,
so sánh và xếp loại chúng, nhận ra được điều kiện áp dụng phương pháp và tính hiệu quả
của chúng (trong điều kiện nào thì áp dụng phương pháp này, mà không phải phương pháp
kia,), thì trong trường hợp này, ta vẫn quan niệm học sinh đã tự mình khám phá ra kiến
thức mới. Ở đây, cái mới không nằm ở bản thân từng phương pháp mà học sinh đã biết, mà
trong tổng thể các mối quan hệ giữa chúng.
2.5. Phát huy tính tích cực học tập của học sinh ngay chính trong phương pháp dạy
học truyền thống
Trước hết cần tránh chủ nghĩa cực đoan cho rằng nên tổ chức cho học sinh tự kiến tạo
(khám phá lại) tất cả những kiến thức môn học mà xã hội mong muốn họ lĩnh hội. Điều này
là không thể, mà trước hết là do không đủ quỹ thời gian làm việc đó. I.Ia.Lécne (1977) cũng
nhấn mạnh :
“Do bản chất xã hội của nó, dạy học là sự truyền thụ kinh nghiệm do xã hội tích luỹ cho
thế hệ trẻ. Cho nên một tổ chức dạy học trong đó học sinh phải khám phá lại tất cả những
điều mà loài người biết được trước đây và được quy định trong chương trình học, là một điều
ít nhất cũng là kì quái”.
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
8
Như vậy, không thể loại bỏ hoàn toàn các phương pháp dạy học truyền thống, mà cần
có một sự vận dụng phối hợp các loại hình phương pháp.
Hơn nữa, theo quan điểm thứ ba nêu trên, ngay cả khi áp dụng phương pháp dạy học
truyền thống, chứ không phải phương pháp tích cực, ta vẫn có thể phát huy được tính tích cực
học tập của học sinh. Nói cách khác, ta có thể khai thác yếu tố tích cực ngay chính trong
phương pháp dạy học truyền thống.
Như vậy, tính tích cực của học sinh được phát huy không phải trong pha khám phá kiến
thức mới mà có thể trong các pha như : Hợp thức hoá kiến thức mới (chứng minh một định lí,
chẳng hạn); Giải các bài toán có vận dụng kiến thức mới vừa lĩnh hội; Ôn tập;
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, nếu kiến thức cần truyền thụ được chiếm lĩnh bởi học
sinh theo cách thức lĩnh hội các tiêu chuẩn hay hình mẫu có sẵn, thì tính tính cực của người
học (nếu có thể hiện) cũng rất thấp.
3. Dạy học đặt và giải quyết vấn đề
Trước khi đi vào nội dung của dạy học đặt và giải quyết vấn đề, ta đề cập hai lưu ý sau
đây:
• Về tên gọi: Đã có nhiều cách gọi khác nhau như Dạy học nêu vấn đề, Dạy học có
tính vấn đề, Dạy học giải quyết vấn đề, Dạy học nêu và giải quyết vấn đề, Dạy học phát
hiện và giải quyết vấn đề, Dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
Mỗi cách gọi đều có những lí lẽ riêng của nó và hàm chứa trong đó logic của hình thức
dạy học tương ứng, cũng như điểm mấu chốt cần nhấn mạnh. Nhưng ta không đi sâu phân tích
vấn đề này.
Ở đây, ta sẽ dùng thuật ngữ Dạy học đặt và giải quyết vấn đề với các lí do sau đây:
– Hiện nay, thuật ngữ này thường hay được dùng;
– Cụm từ “đặt và giải quyết vấn đề” thể hiện một quan điểm sư phạm hiện đại sau
đây về dạy học toán ở trường phổ thông đang được vận dụng trong nhiều nước, chẳng hạn ở
Pháp:
“Học toán là học phát hiện, học trình bày và giải quyết các bài toán, là học xem xét lại
các bài toán dưới ánh sáng của các công cụ lí thuyết nảy sinh từ quá trình giải quyết các vấn
đề.” (Lê Văn Tiến, 2001).
Thuật ngữ Đặt vấn đề được dùng ở trên có thể bao hàm được cả hai nghĩa: phát hiện
vấn đề và trình bày vấn đề.
Dạy cho học sinh tự phát hiện vấn đề, sau đó trình bày và giải quyết vấn đề sẽ cho
phép phát huy cao độ tính tích cực và tư duy sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, việc thực hiện
không mấy dễ dàng trong tình hình dạy học hiện nay. Vì thế có thể tính đến hai cấp độ thấp
hơn là giáo viên dùng vấn đáp gợi mở để giúp học sinh thực hiện điều đó, hoặc chính giáo
viên sẽ trình bày quá trình phát hiện vấn đề.
• Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là một xu hướng sư phạm hay là một phương pháp
dạy học?
Câu trả lời phụ thuộc vào góc độ mà ta xem xét.
ht
tp
://
w
w
w
.v
nm
at
h.
co
m
9
– Từ góc độ quan điểm và tư tưởng tổng quát của cách tiếp cận thì đó là một xu
hướng sư phạm, đặt cơ sở lí luận trên triết học, tâm lí học, giáo dục học và cả sinh học. Từ
quan điểm giáo dục học, tư tưởng tổng quát là: “Học sinh tham gia một cách có hệ thống vào
quá trình giải quyết các vấn đề và các bài toán có vấn đề được xây dựng theo nội dung tài
liệu học trong chương trình.” (I. Ia. Lecne, Phạm Tất Đắc dịch 1977).
– Từ góc độ quy trình hay thao tác áp dụng trong các tình huống dạy học cụ thể, thì
đó là phương pháp dạy học.
Bây giờ, ta sẽ bàn đến một số nội dung cơ bản của dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
3.1. Những khái niệm cơ bản
3.1.1. Vấn đề
Trong phạm vi của giáo trình này, thuật ngữ Bài toán được hiểu là “tất cả những câu
hỏi cần giải đáp về một kết quả chưa biết cần tìm bắt đầu từ những một số dữ kiện, hoặc về
phương pháp cần khám phá, mà theo phương pháp này sẽ đạt được kết quả đã biết ” (Từ điển
« Petit Robert »)6.
Xét bài toán T và một chủ thể X có ý thức về T và tiếp nhận T để giải quyết. Khi đó có
hai khả năng xảy ra:
– Chủ thể X có thể giải quyết được bài toán T chỉ nhờ vào việc áp dụng đơn thuần hệ
thống kiến thức đã có của mình mà không có khó khăn gì.
– X không thể giải quyết được T nếu chỉ dựa vào hệ thống kiến thức đ
File đính kèm:
- phuong-phap-day-hoc-mon-toan-o-truong-pho-thong.pdf