Tự nhiên và xã hội là một môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản ban đầu về các sự vật, sự kiện hiện tượng trong tự nhiên, xã hội với mối quan hệ trong đời sống thực tế của con người. Trong chương trình tiểu học, cùng với Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội trang bị cho các em học sinh những kiến thức cơ bản của bậc học, góp phần bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách toàn diện của con người.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục nước nhà, chương trình giáo dục bậc tiểu học đã thực hiện đổi mới Sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy học các môn học nói chung và môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 nói riêng. Chương trình đã được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với quy luật nhận thức của con người. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Từ thực tế giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 1, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung Sách giáo khoa và phương pháp dạy học để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học sao cho học sinh là người chủ động, nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện, tự giải quyết các tình huống có vấn đề đặt ra trong bài học. Để thực hiện được điều này người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng. Chính vì vậy, trong kinh nghiệm này, tôi xin đề cập đến vấn đề "Phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên và xã hội lớp 1".
24 trang |
Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên và xã hội lớp 1, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I .Đặt vấn đề:
Tự nhiên và xã hội là một môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản ban đầu về các sự vật, sự kiện hiện tượng trong tự nhiên, xã hội với mối quan hệ trong đời sống thực tế của con người. Trong chương trình tiểu học, cùng với Toán, Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội trang bị cho các em học sinh những kiến thức cơ bản của bậc học, góp phần bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách toàn diện của con người.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục nước nhà, chương trình giáo dục bậc tiểu học đã thực hiện đổi mới Sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy học các môn học nói chung và môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 nói riêng. Chương trình đã được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với quy luật nhận thức của con người. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng.
Từ thực tế giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội ở lớp 1, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung Sách giáo khoa và phương pháp dạy học để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học sao cho học sinh là người chủ động, nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện, tự giải quyết các tình huống có vấn đề đặt ra trong bài học. Để thực hiện được điều này người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng. Chính vì vậy, trong kinh nghiệm này, tôi xin đề cập đến vấn đề "Phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên và xã hội lớp 1".
Chương trình giảng dạy môn Tự nhiên và xã hội lớp 1, tôi được trải qua nhiều năm giảng dạy. Do đó, đề tài được nghiên cứu trong phạm vi lớp 1.
III. Cở sở lí luận:
- Đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Nhằm tăng cường hoạt động cá thể phối hợp với hoc tập giao lưu để hình thành, rèn luyện và vận dụng kiến thức trong thực tiễn đời sống. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy gây hứng thú trong học tập để các em có thể học tập tốt được tất cả các môn học khác.
- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 học tốt môn Tự nhiên và xã hội là rèn luyện các em có được kĩ năng giao tiếp, kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.
- Môn Tự nhiên và xã hội là một môn học mang tính tích hợp cao. Tính tích hợp ấy được thể hiện ở 3 điểm sau:
+ Chương trình môn Tự nhiên và xã hội xem xét Tự nhiên – con người – xã hội trong một thể thống nhất, có mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau.
+ Các kiến thức trong chương trình môn học Tự nhiên và xã hội lớp 1 là kết quả của việc tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học như: Sinh học, Vật lí, Hoá học, Dân số.
+ Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 có cấu trúc phù hợp với nhận thức của học sinh.
- Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội có cấu trúc đồng tâm phát triển
- Tự nhiên và Xã hội là một môn học có thể nói cung cấp, trang bị cho học sinh những kiến thức về Tự nhiên và Xã hội trong cuộc sống hàng ngày xảy ra xung quanh các em.
- Các em là chủ thể nhận thức, vậy nên khi giảng dạy giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi học sinh, để có những hoạt động tích cực đến quá trình lĩnh hội tri thức của các em.
- Người giáo viên phải thường xuyên có biện pháp tâm lí, kích thích học sinh học tập như : khen ngợi, tuyên dương, thưởng điểm,… tạo hứng thú cho học sinh phát triển ghi nhớ các biểu tượng, khái niệm kiến thức đến từ cả 5 giác quan nghe, nhìn, sờ mó, nếm, ngửi. Vì thế, giáo viên cần thay đổi hình thức tổ chức hoạt động làm phong phú các hoạt động học tập, tăng cường phương pháp phát triển khả năng quan sát tri giác của học sinh để giúp các em chủ động tiếp thu tri thức, hiểu bài nhanh, khắc sâu và nhớ lâu kiến thức bài học.
Tóm lại: Việc thay đổi các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung chương trình và đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp học, nội dung học tập của môn học cần phải đi song song với quá trình tri giác, tư duy của học sinh.
IV. Cơ sở thực tiễn.
a. Thuận lợi:
* Giáo viên:
- Với chương trình thay sách, giáo viên được hướng dẫn cách xây dựng thiết kế bài học theo hướng mới có phân chia từng hoạt động cụ thể, rõ ràng, có chỉ dẫn các phương pháp theo từng chủ đề.
- Giáo viên được học tập các chuyên san, tham gia dự các chuyên đề của trường bạn.
- Cùng với việc đổi mới nội dung chương trình ở lớp 1, môn Tự nhiên và Xã hội là một môn học được thay đổi nhiều, về nội dung chương trình và cấu trúc sách giáo khoa, vì đã được xây dựng theo hướng tích hợp cả môn giáo dục sức khoẻ trước đây. Nội dung kiến thức tích hợp đã tránh được sự trùng lặp về hình thức, giảm thời lượng học tập của học sinh.
* Học sinh: Học sinh luôn say mê học hỏi, tìm tòi, tìm hiểu thế giới Tự nhiên, Xã hội và thế giới con người quanh các em với những câu hỏi: Tại sao lại thế? Đó là ai? Như thế nào? Vì sao?
b. Khó khăn.
* Giáo viên: Trong trường tiểu học của chúng ta hiện nay, mặc dù thời gian biểu, cũng như phân lượng thời gian số tiết cho các môn học rất rõ ràng, nhưng ở môn Tự nhiên và Xã hội nhiều khi giáo viên coi là môn phụ. Bởi vì khối lượng kiến thức Toán, Tiếng Việt rất nhiều nên Tự nhiên và Xã hội bị lấn lướt và cắt giảm thời lượng.
- Giáo viên còn thiếu kinh nghiệm với cách tổ chức hoạt động tích cực cho trò lĩnh hội kiến thức. Hoặc có tổ chức thì còn lúng túng, mất thời gian, còn qua loa đại khái. Học sinh còn bỡ ngỡ, rụt rè chưa quen với các hoạt động mới hoặc quá phấn khích gây mất trật tự trong lớp học.
- Một số giáo viên chúng ta chưa coi trọng thiết bị dạy học của bộ môn hoặc ngại dùng, có chuẩn bị song thao tác còn vụng về, lúng túng. Do vậy, khiến các em không thích thú với môn học, hiệu quả giờ học không cao.
- Sự hiểu biết của giáo viên còn hạn chế, ít cập nhật thông tin về sự phát triển của Khoa học kỹ thuật.
- Chính vì vậy, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1 là vấn đề nóng bỏng, bức xúc, cần thiết để giáo viên bắt nhịp với việc đổi mới chung của ngành giáo dục và cũng chính là để học sinh chủ động trong học tập có phương pháp, tự chiễm lĩnh, tự tìm kiếm kiến thức mới tốt trở thành những người năng động, sáng tạo, làm bước đà để học sinh thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của xã hội, của khoa học công nghệ.
- Những vấn đề trăn trở và tồn tại trên là động cơ thúc đẩy tôi nghiên cứu thực tế giảng dạy, tìm tòi tham khảo sách báo, tạp chí, chuyên san để bắt tay xây dựng: “Một số biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 .”
V. Nội dung nghiên cứu
A/ Nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội:
Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội được chia làm 2 giai đoạn.
* Giai đoạn 1: Từ lớp 1 đến lớp 3.
* Giai đoạn 2: Từ lớp 4 đến lớp 5.
Học sinh được trang bị những kiến thức sơ giản ban đầu về con người và sức khoẻ, về thế giới tự nhiên và xã hội quanh các em.
Lớp 1: Chương trình môn Tự nhiên và Xã hội đã được thay đổi theo hướng tích cực cả nội dung của môn giáo dục sức khoẻ từ năm học 2002 – 2003. chương trình gồm 35 bài (32 bài học và 3 bài ôn tập) được chia làm 3 chủ đề: Con người và sức khoẻ; Xã hội; Tự nhiên; Khi học xong lớp 1 học sinh biết:
+ Sơ lược về cơ thể con người, cách giữ gìn vệ sinh cá nhân và vui chơi an toàn.
+ Các thành viên của gia đình và lớp học.
+ Quan sát một số cây cối, con vật và sự thay đổi của thời tiết.
Thời lượng học tập được phân phối của lớp 1 là 1 tiết / tuần.
Tóm lại: Nội dung kiến thức trong toàn bộ Tự nhiên và Xã hội lớp 1 được phát triển theo nguyên tắc từ gần đến xa, dẫn dắt học sinh mở rộng vốn hiểu biết từ bản thân đến gia đình, trường học, từ cuộc sống xã hội xung quanh đến thiên nhiên rộng lớn, từ những cây cối, con vật thường gặp đến Mặt trời, Mặt trăng và các vì sao.
B/ Các phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1:
Trong quá trình giảng dạy môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1, chúng tôi thấy có thể chia các phương pháp dạy học thành các nhóm phương pháp sau:
Nhóm 1: Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp động não và phương pháp nghiên cứu tình huống đóng vai.
- ở phương pháp thảo luận, giáo viên tổ chức đối thoại giữa mình và học sinh hoặc giữa học sinh với học sinh, nhằm huy động trí tuệ của tập thể, giải quyết một vấn đề do thực tế cuộc sống đòi hỏi để tìm hiểu hoặc đưa ra những giải pháp, những kiến nghị, những quan niệm mới. Học sinh giữ vai trò tích cực và chủ động tham gia thảo luận và tranh luận. Giáo viên giữ vai trò nêu vấn đề gợi ý khi cần thiết và tổng kết thảo luận. Khi tổ chức hoạt động giáo viên có sử dụng phương pháp thảo luận, cần dự kiến rõ thời gian, hình thức thảo luận, nội dung thảo luận để học sinh thảo luận hướng vào mục tiêu bài học, huy động kiến thức thực tế để xây dựng bài học. Giáo viên cần nêu ra những vấn đề để học sinh tìm cách giải quyết và rút ra kết luận khoa học. Đây chính là giáo viên kết hợp giữa phương pháp thảo luận và phương pháp động não.
- Với học sinh lớp 1 giáo viên chỉ nên đề xuất những vấn đề đơn giản phù hợp với nhận thức của các em vì tư duy của các em còn mang tính khái quát. Cũng với cách tổ chức như vậy nhưng giáo viên đưa ra những tình huống của nội dung học tập gắn liền với thực tế cuộc sống để học sinh tham gia giải quyết bằng cách diễn đạt không cần kịch bản. Đó chính là cách giáo viên sử dụng phương pháp nghiên cứu tình huống và đóng vai.
- Để phát huy được ưu thế của phương pháp này người giáo viên cần thực hiện theo các bước sau:
+ Lựa chọn tình huống.
+ Chọn người tham gia.
+ Chuẩn bị diễn xuất.
+ Đánh giá kết quả.
Đây là nhóm phương pháp đặc trưng, sử dụng chính trong chủ đề “Xã hội”. Tập cho học sinh kĩ năng nghiên cứu giải quyết vấn đề về kiến thức do bài học đặt ra.
Ví dụ: Bài 16 “Hoạt động ở trường”
*Hoạt động 1: Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát các hình trong SGK/34- 35, sau đó thảo luận theo nhóm đôi nội dung các câu hỏi trong phiếu học tập như sau:
+ Trong các hoạt động vừa nêu, hoạt động nào được tổ chức ơtrong lớp? Hoạt động nào được tổ chức ở ngoài sân?
+ Trong từng hoạt động trên, GV là gì? HS làm gì??
Sau khi nghe các nhóm trình bày ý kiến, nhóm khác bổ sung, giáo viên nêu rõ từng hoạt động và kết luận.
*Hoạt động 2: Thảo luận cặp đôi
+B1: - HS nói với bạn về:
Các hoạt động ở lớp của mình.
Những hoạt động có trong từng hình trong bài 16 (GSK- 34-35)
Bước 2: GV gọi một số học sinh lên nói trực tiếp trước lớp.
GV kết luận.
C/ Cách suy nghĩ khi lập kế hoạch bài học theo hướng phát huy tính cực của học sinh:
* Xác định mục tiêu của bài học: xuất phát từ mong muốn giúp học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng, thái độ cần thiết của mỗi bài học, khi viết mục tiêu, Giáo viên phải sử dụng các động từ sao cho có thể lượng hóa, kiểm tra, đánh giá được những kiến thức mà học sinh thu nhận được.
- Về kiến thức: liệt kê, mô tả, nêu tên, nêu đặc điểm, xác định, chỉ ra …
- Về kĩ năng: quan sát, thí nghiệm, so sánh, đối chiếu, phân tích, sắp xếp, phân loại, báo cáo …
- Về thái độ: có ý thức, tự giác, giúp đỡ, bảo vệ …
* Chuẩn bị đồ dùng dạy học
- Để đạt được mục tiêu của bài học này, giáo viên cần suy nghĩ xem phải sử dụng những đồ dùng nào và những phương tiện, dụng cụ thí nghiệm nào không thể thiếu trong tiết học.
- Giáo viên cần xem lại các danh mục về thiết bị và đồ dùng dạy học của nhà trường (hoặc bản thân đã tích lũy được từ trước) để xác định những đồ dùng dạy học cần thiết cho bài đã có sẵn hay phải tự làm hoặc phải dành thời gian cho việc thu thập chúng. giáo viên cần xác định rõ trong số những đồ dùng dạy học đó, học sinh sẽ phải chuẩn bị gì, giáo viên sẽ phải chuẩn bị gì để liệt kê trong kế hoạch bài học và nhớ chuẩn bị chúng.
* Xác định một số phương pháp dạy học:
- Giáo viên phải thay đổi cách nghĩ trước đây là mình phải dạy như thế nào thành cách nghĩ là học sinh phải làm gì để tiếp thu được kiến thức này?
- Xuất phát từ phương pháp học của trò mà chọn phương pháp dạy của thầy.
* Thiết kế các hoạt động dạy học:
- Giáo viên chia bài học thành các hoạt động chủ yếu. Các hoạt động này được sắp xếp theo thứ tự và logic hợp lí.
- Với mỗi hoạt đông, giáo viên cần dự kiến thời gian, xác định mục tiêu và cách tiến hành để đạt được mục tiêu đã đề ra cho hoạt động đó.
Tóm lại:
- Trước kia, khi soạn bài, giáo viên thường nghĩ đến vai trò của người dạy: phải làm gì, nói gì, rồi lựa chọn câu mở bài, câu chuyển ý, gọt rữa lời giảng ra sao và phải chuẩn bị đồng dùng gì để dạy.
- Ngày nay những điều đó vẫn quan trọng, nhưng quan trọng hơn là, giáo viên cần phải nghĩ xem: học sinh phải làm gì, học sinh có cơ hội để nói lên những suy nghĩ của mình vào lúc nào, nói với ai và như thế nào … Để thực hiện điều đó, giáo viên phải chuẩn bị đồ dùng học tập gì cho học sinh? Phải tổ chức cho học sinh làm việc như thế nào?
D/ Quy trình dạy tiết Tự nhiên và Xã hội Lớp 1
A. Kiểm tra bài cũ: ( 2- 3’)
Giáo viên nêu câu hỏi để kiểm tra kiến thức cũ có liên quan kiến thức của bài mới. Tránh kiểm tra kiến thức quá nhiều ảnh hưởng đến tâm lí của học sinh.
B. Dạy bài mới (26’ - 28’)
1. Giới thiệu bài - khởi động (1’ -2’)
- Hình thức tổ chức: Giáo viên nêu mục tiêu tiết học hay tổ chức trò chơi, bài hát, điệu múa hoặc các động tác khởi động.
- Mục đích: Khơi gợi hứng thú học tập, xây dựng động cơ học tập đúng đắn, có mục đích.
- Yêu cầu giáo viên phải hướng dẫn khéo léo để làm xuất hiện những tình huống có vấn đề, kích thích trí tò mò, ham học hỏi của học sinh.
2. Tổ chức các hoạt động dạy học (27 - 28’)
* Hoạt động 1: Quan sát hình thành khái niệm kiến thức.
a) Mục tiêu: Học sinh biết được mục đích quan sát, được quan sát trực tiếp có kế hoạch.
Trên cơ sở quan sát học sinh tự rút ra kết luận hoặc kiến thức cần có.
b) Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng phương pháp:
+ Quan sát.
+ Thảo luận nhóm.
+ Hỏi đáp.
+ Động não.
* Hoạt động 2: Khai thác vốn sống thực tế - Liên hệ hình thành kĩ năng thái độ.
a) Mục tiêu: Hình thành kĩ năng quan sát, nhận xét thắc mắc, đặt câu hỏi. Biết cách diễn đạt những hiểu biết của mình về các sự vật hiện tượng đơn giản trong Tự nhiên và Xã hội.
- Kĩ năng tự chăm sóc sức khoẻ cho bản thân, ứng xử hợp lý trong đời sống để phòng chống một số bệnh tật và tai nạn.
b) Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng phương pháp:
+ Quan sát.
+ Thảo luận nhóm.
+ Hỏi đáp.
+ Luyện tập thực hành.
+ Điều tra.
* Hoạt động 3: Trò chơi học tập hoặc làm phiếu bài tập theo yêu cầu.
a) Mục tiêu:
- Củng cố kiến thức, kĩ năng vừa học.
- Gây hứng thú, xua tan mệt mỏi sau các hoạt động quan sát hình thành kiến thức.
- Tích cực hoá của học sinh.
b) Cách tiến hành: Giáo viên sử dụng phương pháp:
+ Quan sát.
+ Trò chơi.
+ Đóng vai.
+ Điều tra.
Sau mỗi hoạt động giáo viên cần chốt kiến thức, kỹ năng trọng tâm đã cung cấp cho học sinh.
c) Củng cố dặn dò (2 - 3’)
- Giáo viên nêu 1- 2 câu hỏi để kiểm tra kiến thức, kĩ năng, thái độ học sinh đã nắm được qua giờ học.
- Giáo viên nhận xét tiết học.
Đ, Một số biện pháp thực hiện đổi mới phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội lớp 1.
1. Tổ chức tốt các hoạt động dạy – học.
Mục tiêu đổi mới của môn học là nhằm tăng cường hoạt động học tập của cá nhân học sinh nên tổ chức dạy học theo hướng sáng tạo chính là trọng tâm của việc đổi mới. Vì vậy, để đưa học sinh trở thành chủ thể nhận thức, chủ động tích cực tiếp thu kiến thức mới. Giáo viên cần khéo léo tổ chức các hoạt động dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức mới theo hướng hoạt động tích cực hoá. Muốn vậy người giáo viên cần xác định đúng tầm quan trọng của môn học, ý nghĩa của môn học để đảm bảo các yêu cầu:
- Dạy đủ số tiết, số bài quy định.
- Dạy đủ thời gian, đi đúng quy trình đã thống nhất của một tiết dạy khi thiết kế bài học.
- Dạy đúng theo hướng đổi mới các phương pháp tổ chức, các hoạt động học tập để học sinh tích cực tham gia xây dựng bài học. Đồng thời: Khi tổ chức dạy học, giáo viên cũng cần chú ý đến nghệ thuật thu hút học sinh, cần tạo ra những động cơ thúc đẩy các em học tập, như tuyên dương, khen ngợi, …Kĩ thuật giao việc của giáo viên cũng cần phải khéo léo, mỗi câu hỏi nêu ra cần đảm bảo tính vừa sức, tính phù hợp, làm sao để mỗi đối tượng học sinh đều lĩnh hội được kiến thức của bài học một cách đầy đủ, sáng tạo. Học sinh phải thấy được chính các em là người tìm ra kiến thức và có hứng thú xây dựng bài học.
2. Lựa chọn các phương pháp phù hợp với bài học.
Mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm riêng do vậy người giáo viên phải có sự lựa chọn kết hợp giữa các phương pháp cho phù hợp với đặc trưng của từng môn học đặc biệt là môn Tự nhiên và Xã hội. Bên cạnh đó người giáo viên cần căn cứ vào hoàn cảnh, tình hình cụ thể của lớp học và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để thay đổi hình thức học tập, tạo hứng thú cho học sinh. Nhằm giúp học sinh tìm ra kiến thức bằng con đường ngắn nhất, nhanh nhất. Do vậy giáo viên cần nắm vững và sử dụng thành thạo các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới kế thừa được những ưu điểm của những phương pháp truyền thống, sử dụng đa dạng các hình thức học tập như thảo luận nhóm, đàm thoại, trực quan, luyện tập thực hành, trò chơi…để tiết dạy diễn ra một cách nhẹ nhàng tự nhiên và có hiệu quả.
Ví dụ: Bài 16: Hoạt động ở lớp.
* Hoạt động 1: Thảo luận nhóm nêu tên cáốphạt động ở lớp.
Bước 1: Thảo luận nhóm
- Giáo viên giao việc: Chia nhóm, giao việc cho các nhóm, quan sát tranh và nêu tên các con vật có trong tranh, con nào là vật nuôi? Con nào sống hoang dã?
- Học sinh quan sát, động não, thảo luận theo cặp.
Bước 2: Làm việc cả lớp
- Cho đại diện các nhóm trình bày, hoặc từng cặp hỏi đáp về các con vật mà nhóm mình vừa thảo luận.
- Giáo viên nhận xét và kết luận.
* Hoạt động 2: Trò chơi: Đố bạn hoạt động gì?
Bước 1: Giáo viên nêu cách chơi với mục tiêu giúp học sinh nhớ lại đặc điểm chính, các hoạt động ở lớp.
Bước 2: Học sinh chơi nêu tên các hoạt động
- Các nhóm khác nhận xét
- Giáo viên nhận xét khen ngợi, động viên học sinh và kết luận.
3. Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học:
Khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, việc sử dụng đồ dùng dạy học là cực kỳ quan trọng với tất cả các môn học. Đồ dùng dạy học quyết định sự thành công của một tiết dạy.Vì vậy, trước mỗi tiết dạy người giáo viên cần chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng phục vụ cho tiết dạy của mình. Giáo viên phải có phương pháp sử dụng thích hợp đối với mỗi loại thiết bị dạy học. Giáo viên cần sử dụng thiết bị dạy học như một nguồn cung cấp kiến thức chứ không phải để minh hoạ cho bài học, làm đẹp cho giờ học. Ngày nay khi bùng nổ công nghệ thông tin thì việc đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy là một thuận lợi lớn đối với mỗi tiết dạy. Vì vậy, để làm được những tiết giáo án điện tử thành công người giáo viên cần tìm tòi, sáng tạo, sưu tầm tranh ảnh trong thực tế để đưa vào bài giảng những hình ảnh đẹp nhất. Khi sử dụng đồ dùng dạy học, giáo viên cần phải lưu ý một số điểm sau:
- Lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp với nội dung bài học.
- Cần nghiên cứu, sử dụng thành thạo các loại đồ dùng.
- Lựa chọn đúng thời điểm phù hợp để đưa ra đồ dùng.
- Cần huy động tối đa những đồ dùng học tập học sinh có thể chuẩn bị được để phục vụ cho các hoạt động tập thể, tranh ảnh, vật thật.
Đối với học sinh cần phải chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng học tập đã được giáo viên giao, tham gia xây dựng bài học một cách hiệu quả.
Ví dụ: Bài 16:hoạt động ở lớp?
- Học sinh phải chuẩn bị sưu tầm tranh ảnh, đồ dùng học tập để phục vụ cho bài học.
Bài 20: Cây rau
- Giáo viên cần chuẩn bị các loài cây rau có xung quanh như: Bắp cải, rau muống su hào,...
Bài 25: Con cá.( Có sử dụng công nghệ thông tin )
Việc đưa tranh ảnh với các con cá có trong bài. Giáo viên đã sưu tầm thêm tranh ảnh con cá khác gần gũi với các em, để giới thiệu thêm cho các em rõ hơn về con cá.
4. Phối hợp Tự nhiên và Xã hội với các môn học khác:
Trong trường tiểu học các môn học có tác dụng hổ trợ lẫn nhau, môn nọ là nền tảng để học tốt môn kia. Vì vậy môn Tự nhiên và Xã hội là tư liệu phục vụ cho bài học, chúng là thực tế Tự nhiên và Xã hội, con người quanh các em. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải tích hợp kiến thức của các môn học có liên quan như: Tiếng Việt, Đạo đức,… để giúp học sinh có thêm kiến thức thu nhập thực tế vận dụng vào bài học.
5. Tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức cho giáo viên và học sinh:
Tự nhiên và Xã hội là môn học mang trong mình nhiều kiến thức thực tế hết sức phong phú và gần gũi về thế giới Tự nhiên và Xã hội, thế giới con người. Vì vậy, tăng cường bồi dưỡng vốn kiến thức thực tế cho giáo viên, học sinh là việc làm quan trọng đóng góp vào thành công trong công việc đổi mới phương pháp dạy học môn Tự nhiên và Xã hội không chỉ ở lớp 1 mà đối với tất cả các lớp tiểu học.
* Đối với giáo viên: Thực tế cuộc sống rất phong phú đòi hỏi mỗi người cần phải không ngừng học và bồi dưỡng vốn hiểu biết. Hành trang kiến thức của người giáo viên cần được cập nhật và hoàn thiện cùng với sự phát triển của xã hội. Chúng ta không chỉ học ở sách báo, tạp chí, mà còn học ở đồng nghiệp, học ở mọi người xung quanh. Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức cho tổ chuyên môn sinh hoạt theo định kỳ, bàn bạc, giải quyết những vướn mắc trong chuyên môn.
* Đối với học sinh: Cần tạo cho học sinh thói quen quan sát thế giới xung quanh. Các em đã được quan sát, tham quan nghề truyền thống của địa phương.
* Song song với hoạt động này, nhà trường đã tổ chức cho giáo viên đi tham quan những danh lam thắng cảnh đẹp của đất nước. Hay về với di tích để tích lũy và sưu tầm thêm tư liệu giảng dạy.
Tóm lại: Để tăng cường hoạt động của học sinh, thực hiên tốt phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học môn Tự nhiên và Xã hội cần phải có sự kết hợp các biện pháp nêu trên. Người giáo viên cần có sự gắn kết, sâu chuỗi nhịp nhàng giữa các hoạt động của thầy và hoạt động của trò, định hướng cho học sinh con đường tự lĩnh hội, tự phát hiện ra kiến thức.
Tất cả các biện pháp nêu trên, nhằm đạt tới mục đích cuối cùng là sau khi học xong mỗi tiết Tự nhiên và Xã hội nói riêng và hoàn thành chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 1 nói chung, học sinh tích lũy được vốn hiểu biết về tự nhiên và xã hội, về cấu tạo của các cơ quan trong cơ thể của con người, ý thức được trách nhiệm của mình với bản thân, gia đình và mọi người xung quanh, yêu thiên nhiên, đất nước và bảo vệ môi trường sống.
VI. Kết quả nghiên cứu:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện: “ Một số biện phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn Tự nhiên và xã hội lớp 1” với những biện pháp trên, sau một học kì chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
- Chất lượng giảng dạy và chất lượng học tập môn Tự nhiên và Xã hội đạt kết quả rõ rệt.
- Giáo viên đã tích cực học tập bồi dưỡng vững vàng hơn về chuyên môn, nắm chắc quy trình và phương pháp giảng dạy.
- Học sinh học tập tích cực, hứng thú, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, không khí lớp học sôi nổi, hào hứng, học sinh hứng thú với môn Tự nhiên và Xã hội.
- Môn Tự nhiên và Xã hội không còn là môn phụ, mà thực sự đã trở thành một môn học có tác dụng giáo dục quan trọng, góp phần rất hiệu quả vào việc nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
Áp dụng những biện pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh là việc làm hết sức thiết thực. Kết quả cụ thể việc nhận thức của học sinh về môn Tự nhiên và xã hội rất khả quan.
Kết quả học tập được xếp loại như sau:
VII. Kết luận:
Để phát triển con người toàn diện góp phần hình thành năng lực, phẩm chất, tư duy cho học sinh thì việc dạy tốt tất cả các môn học là một yêu cầu không thể thiếu. Người giáo viên không những dạy tốt các môn Toán, Tiếng Việt hình thành tri thức cho học sinh mà còn phải dạy tốt tất cả các môn học khác nhau để phát triển một con người toàn diện.
Việc dạy tốt môn Tự nhiên và xã hội là một yêu cầu đã và đang được quan tâm song song với những môn học khác. Cùng với việc đổi mới các phương pháp dạy học trong nhà trường tiểu học mà môn Tự nhiên và xã hội được thay đổi theo hướng tích cực. Giáo viên nhiệt tình, có trình độ tay nghề, trình độ khoa học công nghệ nâng lên sẽ là điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức giờ học nhẹ nhàng mà hiệu quả.
Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học và tổ chức các hoạt động theo hướng đổi mới, chúng tôi đã rút ra những bài học sau:
1. Yêu cầu về kiến thức:
- Giáo viên cần nắm vững được kiến thức xuyên suốt trong toàn cấp học, đối với môn Tự nhiên và Xã hội nói riêng và các môn học khác nói chung. Từ hệ thống kiến thức đó, giáo viên sâu chuỗi lại để có định hướng giảng dạy cung cấp kiến thức cho học sinh đúng trọng tâm hơn.
- Giáo viên cũng cần phải có kiến thức tích hợp trong từng bài, từng chủ điểm trong từng khối lớp, để thuận lợi trong việc thiết kế bài học, định hướng các phương pháp dạy học trong từng chủ điểm của môn học cho phù hợp.
2. Lập kế hoạch bài học:
- Giáo viên cần nắm vững nội dung cơ bản của bài học trong sách giáo khoa và những hướng dẫn cụ thể về mục tiêu cần đạt trong c
File đính kèm:
- SKKN_MON_TNXH_LOP_1nam_2012.doc