Ở nhà trường THPT, môn văn học có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và những phẩm chất tư duy cho học sinh, góp phần đáp ứng những yêu cầu của thời đại trong mục tiêu đào tạo con người . Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho người học. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ vị trí, đặc trưng của bộ môn trong mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại. Để có được một học sinh yêu thích, đam mê và thật sự giỏi văn chương là một việc không dễ. Bồi dưỡng nhân tài nói chung, đào tạo học sinh giỏi văn nói riêng là công việc vô cùng quan trọng và thiêng liêng của người giáo viên dạy văn trong nhà trường hiện nay. Công việc ấy, đòi hỏi tâm huyết, trách nhiệm và phụ thuộc nhiều ở kinh nghiệm phát hiện, lựa chọn và năng lực giảng dạy của người giáo viên dạy văn. Học sinh giỏi văn chính là nguồn nhân lực tương lai của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đào tạo học sinh giỏi văn đúng nghĩa là công việc vô cùng khó, việc phát hiện học sinh giỏi, có thiên bẩm văn chương càng không phải chuyện dễ trong ngày một ngày hai. Có người ví rằng: chuyện ngưòi thầy phát hiện học sinh giỏi văn chẳng khác công việc của người trồng hoa , chơi cây cảnh. Bông hoa đẹp bởi bàn tay chăm sóc, tỉa tót, uốn nắn của người trồng. Quan trọng hơn, đôi mắt của người trồng phải thấy được thế cây, kiểu dáng, biết chọn dáng đẹp, biết làm cho hoa khoe sắc rực rỡ đúng kì. Nói như thế cho thấy công việc phát hiện , bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một kì công của người thầy dạy văn.
23 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Làm thế nào để phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn đạt hiệu quả, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
A. Phần nội dung
1. Lí do chọn đề tài 2
2. Mục đích nghiên cứu 4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Giới hạn đề tài 5
B. Nội dung và những giải pháp 5
Chương I: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu 5
I. Cơ sở pháp lí 5
II. Cơ sở lí luận 6
III. Cơ sở thực tiễn 7
Chương II: Thực trạng của đề tài 8
1. Những thuận lợi và khó khăn 8
1.1. Thuận lợi 8
1.2. Khó khăn 8
Chương III: Nội dung và biện pháp thực hiện 9
1- Làm thế nào để phát hiện học sinh giỏi văn 9
2- Một vài kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn văn 12
2.1-Những phương cách bồi dưỡng 12
2.2-Nội dung, kiến thức bồi dưỡng học sinh giỏi 13
2.3-Yêu cầu về diễn đạt để có lời văn hay trong bài văn 16
3- Kết quả thực hiện 18
C. Kết luận 19
1-Kết luận 19
2-Một số kiến nghị đề xuất 20
Phần đánh giá của hội đồng khoa học các cấp 21
Danh mục tài liệu tham khảo 22
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1-Lí do chọn đề tài:
Ở nhà trường THPT, môn văn học có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và những phẩm chất tư duy cho học sinh, góp phần đáp ứng những yêu cầu của thời đại trong mục tiêu đào tạo con người . Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho người học. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn văn còn thể hiện rõ vị trí, đặc trưng của bộ môn trong mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại. Để có được một học sinh yêu thích, đam mê và thật sự giỏi văn chương là một việc không dễ. Bồi dưỡng nhân tài nói chung, đào tạo học sinh giỏi văn nói riêng là công việc vô cùng quan trọng và thiêng liêng của người giáo viên dạy văn trong nhà trường hiện nay. Công việc ấy, đòi hỏi tâm huyết, trách nhiệm và phụ thuộc nhiều ở kinh nghiệm phát hiện, lựa chọn và năng lực giảng dạy của người giáo viên dạy văn. Học sinh giỏi văn chính là nguồn nhân lực tương lai của các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Đào tạo học sinh giỏi văn đúng nghĩa là công việc vô cùng khó, việc phát hiện học sinh giỏi, có thiên bẩm văn chương càng không phải chuyện dễ trong ngày một ngày hai. Có người ví rằng: chuyện ngưòi thầy phát hiện học sinh giỏi văn chẳng khác công việc của người trồng hoa , chơi cây cảnh. Bông hoa đẹp bởi bàn tay chăm sóc, tỉa tót, uốn nắn của người trồng. Quan trọng hơn, đôi mắt của người trồng phải thấy được thế cây, kiểu dáng, biết chọn dáng đẹp, biết làm cho hoa khoe sắc rực rỡ đúng kì. Nói như thế cho thấy công việc phát hiện , bồi dưỡng học sinh giỏi văn là một kì công của người thầy dạy văn.
Hằng năm, qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh, tổ văn chúng tôi ngày càng gặt hái được những thành công đáng kể. Song đáng tiếc là số học sinh tham gia và thi đạt giải môn văn còn khiêm tốn. Điều này có nguyên nhân từ cả hai phía. Trước hết là từ phía người thầy. Do phải bám sát việc thực hiện theo phân phối chương trình, người thầy không có điều kiện đầu tư về chiều sâu trong về việc cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm bài thi học sinh giỏi ; thời gian dành cho việc tập trung bồi dưỡng cũng không nhiều (thường thì những em được chọn đi thi học sinh giỏi chỉ được tập trung bồi dưỡng khoảng trên dưới 10 buổi); Về phía học sinh, "nhân tài" vốn đã hiếm, các em lại phải học nhiều môn nên việc đầu tư thời gian tự bồi dưỡng môn văn không được nhiều, quyết tâm đoạt giải của các em lại chưa cao, môi trường học tập thật sự chưa tốt....
Thực hiện Nghị quyết số 40/2000/QH10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa X; Chỉ thị số 14/2001/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ về đổi mới chương trình Giáo dục phổ thông; Chỉ thị số 30/1998/CT-TTg về điều chỉnh chủ trương phân ban ở phổ thông trung học; Chỉ thị số 40-CTTW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư về xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục, từ năm học 2006-2007,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện chương và sách giáo khoa mới bậc Trung học phổ thông trên toàn quốc. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, của nhà nước, của ngành đã khẳng định mục tiêu công cuộc đổi mới giáo dục nhằm: “nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nướctiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và thế giới”; “khắc phục những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa, tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn”. Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó đổi mới phương pháp là khâu quan trọng. Trong phương pháp tổ chức, người học-đối tượng của họat động “dạy”, trở thành trung tâm, là chủ thể của hoạt động “học”, giáo viên là người tổ chức, chỉ đạo. Phương pháp đổi mới dạy học nhằm tăng cường, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tự học trong hoạt động học tập của học sinh. Với ý nghĩa ấy, việc phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng học sinh giỏi bộ văn trở thành nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong quá trình dạy học.
Để có được một học sinh giỏi văn, ngoài năng lực, tố chất của học sinh còn cần có vai trò, trách nhiệm niềm đam mê nhiệt huyết của người thầy là điều không thể phủ nhận được. Trãi qua quá trình dạy học, tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn ở trường phổ thông, nhận thấy khả năng, năng lực tiếp nhận tác phẩm và tạo lập văn bản ở những học sinh giỏi văn vẫn còn hạn chế. Đúc kết được kinh nghiệm trong quá trình dạy học qua các năm đổi mới chương trình, thay sách giáo khoa đã mang lại những hiệu quả nhất định.
Từ những vấn đề trên, trong phạm vi giới hạn bài viết mang tính chất “trao đổi kinh nghiệm cá nhân”, tôi chỉ đề cập đến vấn đề: “Làm thế nào để phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn văn mang lại kết quả cao” . Đó là lí do vì sao tôi chọn đề tài này.
2- Mục đích nghiên cứu
- Nhằm phát hiện, xây dựng và bồi dưỡng đội HSG bộ môn cấp trường, tạo điều kiện để học sinh phát huy năng khiếu cảm thụ và tạo lập tốt một văn bản văn học và xã hội.
- Góp phần đẩy mạnh phong trào học tập tốt bộ môn trong nhà trường. Phát triển năng lực trí tuệ, giáo dục tư tưởng tình cảm thẫm mĩ cho học sinh
- Định hướng cho việc chọn ngành, chọn nghề, tạo điều kiện tốt để học sinh tiếp tục học chuyên sâu ở ngành học, bậc học cao hơn.
3- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: chúng tôi chỉ khảo sát đối tượng là những học sinh đã được chọn vào đội học sinh giỏi văn cấp trường trong những năm học qua (chủ yếu từ năm học 2003-2004 đến năm học 2009-2010 ). Các văn bản, các vấn đề văn học thuộc chương trình lớp10,11,12 sách giáo khoa mới.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung làm rõ vấn đề cách phát hiện, lựa chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi văn để đạt kết quả.
4- Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung đi sâu làm rõ vấn đề quan niệm về học sinh giỏi bộ môn văn, những phương cách phát hiện, tuyển chọn học sinh giỏi và bồi dưỡng học sinh giỏi. Qua việc nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả việc dạy và học văn theo phương pháp đổi mới.
5- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở thực tế công việc phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng học sinh giỏi trong những năm qua, đề tài vận dụng các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh trên số liệu đạt được từ thực tế của tổ Văn - Nghệ thuật trường Võ Thị Sáu
6- Giới hạn đề tài
Phạm vi bài viết kinh nghiệm của một cá nhân, tôi tập trung các vấn đề cần trao đổi:
+ Làm thế nào để phát hiện học sinh giỏi văn; Cách thức tuyển chọn.
+ Những kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh.
+ Vấn đề: Yêu cầu về cách diễn đạt để có lời văn hay trong bài văn
+ Một số đề xuất, kiến nghị
B-NỘI DUNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
Chương I
Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu.
I- Cơ sở pháp lí
Các văn bản liên quan đến đề tài:
- Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11,12 chương trình chuẩn
- Sách giáo khoa Ngữ văn 10,11,12 chương trình nâng cao
- Sách giáo viên Ngữ văn 10,11,12 chương trình chuẩn
- Sách giáo viên Ngữ văn 10,11,12 chương trình nâng cao
- Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 10, 11,12 trung học phổ thông, môn Ngữ văn – Nhà xuất bản giáo dục.
II- Cơ sở lí luận
Quan niệm thế nào là học sinh giỏi văn?
Vấn đề tưởng đơn giản, song ở bộ môn có bề dày nhất trong lịch sử giáo dục nhân loại này đến nay vẫn còn nhiều điều không dễ thâu tóm thành một số tiêu chí trong một vài kiểu quy chiếu nào đấy. Quan niệm đúng sẽ là tiền đề cho việc phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng có hiệu quả.
Học sinh giỏi văn đúng nghĩa là học sinh có năng khiếu và năng lực cảm thụ, tự thể hiện suy nghĩ độc lập của bản thân. Thực tế học sinh có năng khiếu chiếm tỉ lệ rất ít, đa phần là có năng lực. “Năng lực” và “năng khiếu” văn chương không phải là một. “Năng khiếu” -bẩm sinh, là thứ “trời cho” . Năng khiếu văn học là năng khiếu sáng tác nghệ thuật thiên bẩm ( sáng tác thơ văn, viết truyện, tiểu thuyết). “Năng lực” văn học là khả năng nắm bắt những tri thức khoa học về văn chương. “Năng lực” có được là do quá trình học hỏi, rèn luyện, tích tụ của bản thân học sinh cùng sự giúp đỡ của người thầy. Năng lực có thể chuyển hoá thành năng khiếu nếu có sự vun xới bồi dưỡng đúng, thích hợp. Bồi dưỡng năng lực văn học là nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn trong nhà
trường. Không có những học sinh giỏi, có năng khiếu văn, dẫu thầy có tài giỏi mấy cũng khó đạt được điều mình mong muốn.
Chúng tôi quan niệm rằng: Một học sinh giỏi văn phải đáp ứng được điều kiện cần và đủ những tố chất sau:
+ Có niềm say mê, yêu thích văn chương.
+ Có tư chất bẩm sinh như tiếp thu nhanh, có tri nhớ bền vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo (có ý tưởng mới trong bài làm).
+ Có vốn tri thức về tác phẩm văn học phong phú và hệ thống; có sự hiểu biết về con người và xã hội.
+ Giàu cảm xúc và thường nhạy cảm trước mọi vấn đề của cuộc sống.
+ Có vốn từ tiếng Việt khá dồi dào.
+ Nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị luận
Môn văn là một loại hình nghệ thuật có nhiều đặc điểm chung và riêng. Đặc trưng riêng nổi bật nhất của bộ môn nghệ thuật này là tính phong phú đa dạng của hình tượng nghệ thuật. Mỗi tác phẩm là một chỉnh thể đa nghĩa, quá trình tiếp nhận và thể hiện đòi hỏi sự sáng tạo .Trong công việc giảng dạy của giáo viên và tập viết văn của học sinh nhất nhất không tuân theo kiểu mẫu có sẵn. Người dạy luôn thay đổi cách dạy, sáng tạo trong từng tác phẩm. Người viết phải sáng tạo trong cách thể hiện. Song sự sáng tạo đó phải dựa trên cơ sở kiến thức lí luận. Ngoài kiến thức tích luỹ được, cần có phương phápviết văn, năng lực quan sát, tái hiện, phân tích, tổng hợp, lập luận
Cần nhận thức đúng đắn bộ môn văn học không chỉ là môn lý thuyết “nói nhiều hơn làm”, dạy HSG văn không chỉ trang bị kiến thức suông. Thiên về thuyết giảng sẽ làm mất khả năng cảm và hứng để viết văn, người dạy cần bồi dưỡng kĩ năng thực hành, luyện tập viết văn, sáng tác Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói:“Dạy làm văn là chủ yếu là dạy cho học sinh diễn tả cài gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính xác, làm nỗi bật điều mình muốn nói” ( Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Nghiên cứu giáo dục, số 28, 11/1973). Để thực hiện tốt điều nói trên cần phải nhận thức: thời gian chính khoá dành cho thực hành bộ môn quá eo hẹp, cần ưu tiên quỹ thời gian bồi dưỡng kĩ năng thực hành, năng lực tự học nhiều hơn ở các giờ ngoại khoá.
III- Cơ sở thực tiễn
Là một giáo viên với 20 năm tuổi nghề - không còn gọi là trẻ, chúng tôi thấy rằng việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi văn cực kì khó khăn, phức tạp. Song với lòng đam mê, cùng việc tìm tòi học hỏi đúc kết kinh nghiệm, sự đồng thuận của tập thể tổ bộ môn, trong các năm qua, bản thân cùng tập thể đã mang lại những kết quá đáng khích lệ trong việc phát hiện và bỗi dưỡng học sinh giỏi bộ môn.
Chương II
Thực trạng của đề tài nghiên cứu
1. Những thuận lợi và khó khăn.
1.1 Thuận lợi:
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài:
+ Là tổ trưởng và giáo viên đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy gẫm về chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học sinh giỏi.
+ Bản thân chịu khó tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp Tiếp cận và tích lũy, sưu tầm nhiều dạng đề thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc gia, các đề học sinh giỏi ở các tỉnh khác.v.v... có ghi chép, tích lũy, cập nhật thường xuyên.
+ Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài trường để học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi dưỡng.
- Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài:
+ Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, sự đồng thuận của tập thể tổ bộ là điều kiện tốt đem lại kết quả cao trong công tác phát hiện và bồi dưỡng HSG.
1.2. Khó khăn:
- Trường PT cấp II-III Võ Thị Sáu-một ngôi trường mới thành lập (từ năm 2001), bề dày giảng dạy chưa cao, trường đóng trên địa bàn nông thôn còn nghèo, thiếu thốn mọi mặt, môi trường học tập không mấy thuận lợi so với các trường khác (sách vở, tư liệu thiếu thốn không có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng). .
- Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh về môn văn chưa cao. Học sinh tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác. Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ môn có ý thức coi nhẹ môn văn, có học sinh không được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn anh văn mới chịu vào đội tuyển văn.
- Xu hướng chọn nghề thi vào trường chuyên nghiệp ngành xã hội-nhân văn ngày càng hẹp, nên học sinh yêu thích bộ môn ngày càng ít. Việc chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi gặp nhiều khó khăn
Trên thực tế những năm qua, khi áp dụng những kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng của bản thân vào quá trình giảng dạy, số lượng học sinh giỏi văn các cấp của nhà trường ngày càng tăng, có em được chọn vào đội tuyển học sinh giỏi thi cấp quốc gia .
Chương III
Nội dung và biện pháp thực hiện
1- Làm thế nào để phát hiện học sinh giỏi văn.
Trong quá trình dạy học, và tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân nhận thấy rằng: muốn đem lại kết quả bồi dưỡng, trước tiên phải phát hiện và chọn đúng đối tượng. Làm thế nào để xác định được những học sinh không chỉ có năng khiếu văn học, còn có lòng say mê, yêu thích văn chương. Chọn đúng được học sinh có năng khiếu, thì bồi dưỡng được những học sinh giỏi văn, con đường bồi dưỡng được rút ngắn khoảng cách.
Theo bản thân chúng tôi, tuyển chọn học sinh giỏi nên làm thường xuyên, tiến hành ngay từ lớp 10-đầu cấp học hoặc chậm nhất vào cuối năm lớp 10. Tuyển chọn học sinh vào đội tuyển dựa vào những cơ sở sau:
Khi chọn, người giáo viên cần dựa vào các kết quả học tập của học sinh cấp học THCS qua điểm tổng kết, điểm thi tốt nghiệp, điểm thi học sinh giỏi các cấp. Nếu được tham khảo thêm ý kiến của giáo viên trực tiếp giảng dạy cấp học đó để nắm chắc điểm mạnh, điểm yếu của từng học sinh. (Điểm này rất thuận lợi đối với một trường có hai cấp học như trường cấp 2-3 Võ Thị Sáu).
Nhà trường nên tổ chức thi tuyển chọn, kích thích học sinh tham gia. Giáo viên xem xét kĩ bài văn cùng bài viết đầu năm - đây có thể coi là công trình sáng tạo đầu tiên mang dấu ấn riêng của cá nhân. Người thầy phải tìm ra chất giọng, chất văn, cách nghĩ độc đáo của trò. Đồng thời kết hợp qua ý thức học, khả năng tiếp thu và bộc lộ nhận thức, cảm xúc của học sinh trong các giờ học văn.
Trong quá trình học tập, giao tiếp, cần tìm hiểu thái độ của học sinh đối với bộ môn. Học sinh có yêu thích đam mê, tự giác, hào hứng và có tinh thần trách nhiệm với bộ môn không? Tránh tình trạng bỏ cuộc giữa đường sau thời gian dài đã được bồi dưỡng vì ngại khó
Việc tuyển chọn vào đội tuyển học sinh giỏi của trường trong những năm qua, chúng tôi đã đề xuất và cơ bản căn cứ yếu tố sau để phát hiện:
Chúng tôi cho rằng, học sinh có năng khiếu văn thường thể hiện những dấu hiệu bên ngoài như: dễ rung cảm, xúc động, tinh nhạy, bộc lộ thái độ trước từng tác phẩm văn thơ, ngôn ngữ phong phú, có khả năng cảm thụ và diễn đạt độc đáo, tư duy khúc chiết, trong sángcộng với việc đam mê, yêu thích đọc-học, có nhu cầu thưởng thức và sáng tác thơ văn.Chính sự đam mê, yêu thích văn học là động lực, điều tiên quyết giúp học sinh vượt qua những khổ ải trên đường học tập để đến với văn chương. Niềm say mê ấy, thúc đẩy các em tìm tòi trích luỹ tư liệu, chịu khó đọc, sưu tầm sách vở, trau dồi ngôn ngữ
Những học sinh giỏi văn, khi đứng trước một vấn đề thường có khả năng phát hiện, giải quyết vấn đề nhanh, nhạy, đúng bản chất tường tận và linh hoạt-có sáng tạo ít nhiều. Đối với học sinh giỏi văn, năng lực tư duy rất cần thiết. Khả năng tư duy tốt, giúp các em khả năng phân tích, tổng hợp cao, khám phá những điều mới lạ, có khả năng tìm thấy cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật trong từng tác phẩm. Đó là điều cần thiết nhất của người học văn.
Khi chọn học sinh giỏi cần chú ý đến những em có kiến thức vững chắc phong phú về lịch sử văn học, về vốn từ ngũ dồi dào, kĩ năng làm văn, kĩ năng diễn đạt hệ thống lập luận tốt, biết làm chủ vốn kiến thức có hiệu quả trước mỗi yêu cầu học tập, thi cử và ứng xử xã hội.
Ở đây, chúng tôi không đồng nhất đánh giá yêu cầu một học sinh giỏi văn cấp THPT với một người có khả năng sáng tác văn chương. Đây chỉ là yêu cầu toàn diện mang tính đặt thù của học sinh giỏi văn. Tất nhiên không thể đòi hỏi đầy đủ các yêu cầu trên đối với mọi học sinh giỏi văn.
Theo số liệu lưu trữ, chúng tôi thống kê được số lượng học sinh từng khối được tuyển vào đội tuyển của trường trong từng năm học, để thấy được tỉ lệ giữa các khối.
BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG HỌC SINH GIỎI CÁC NĂM
Năm học
T/Số HS
Tham gia
Khối 10
Khối 11
Khối 12
S/Lượng
%
S/Lượng
%
S/Lượng
%
2002-2003
4HS
0
0
0
0
4
100
2003-2004
5HS
0
0
0
0
5
100
2004-2005
11HS
0
0
5
45,5%
6
54,5%
2005-2006
8HS
0
0
5
62,5%
3
37,5%
2006-2007
7HS
0
0
3
42,9%
4
57,1%
2007-2008
15HS
5
33,3%
3
20,0%
7
46,7%
2008-2009
12HS
2
16,6%
7
58,3%
3
25,0%
2009-2010
8HS
0
0
4
50
4
50
( Số học sinh được chọn vào đội học sinh giỏi của trường phụ thuộc vào từng năm. Qua bảng thống kê, cho thấy, các năm ở các khối lớp đều có học sinh được chọn vào đội học sinh giỏi của trường. Năm học 2007-2008, 2008-2009, 2009-2010 chúng tôi mạnh dạn đề xuất lãnh đạo nhà trường cho tuyển chọn học sinh khối 10, để các em được tham gia các buổi bồi dưỡng- đối tượng dự thính lâu dài.Trong quá trình bồi dưỡng, giáo viên bộ môn phát hiện, tuyển chọn những học sinh đủ điều kiện, có năng lực văn học, say mê, yêu thích văn chương và đạt kết quả cao qua các bài kiểm tra để tiếp tục tham gia dự thi tuyển chọn học sinh giỏi cấp tỉnh.).
Qua các kì thi tuyển chọn học sinh giỏi cấp tỉnh, trong thành phần của đội học sinh giỏi luôn có học sinh đang học lớp 11. Nhiều năm liền, trường có học sinh đạt giải cao là học sinh 11.
Năm học 2003-2004, em Huỳnh Thị Thái Phong, em Đinh Thị Cúc Thơ, em Huỳnh Thị Hằng đều là học sinh lớp 11 đạt giải. Em Huỳnh Thị Hằng đạt giải nhì cấp tỉnh và được chọn tham dự kì thi học sinh giỏi quốc gia. Năm học 2007-2008, học sinh Nguyễn Thị Thanh Nguyệt, đang học lớp 11, đạt giải ba kì thi tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh. Chính việc phát hiện và được bồi dưỡng “dài hơi”, các em có đủ kiến thức, kỉ năng tham dự và đạt kết quả cao. Năm học 2009-2010, trong đội tuyển 8 HS tham dự bồi dưỡng có 4 HS lớp 11 dự thính để làm nồng cốt cho năm học sau. Đội HSG tham gia thi học sinh giỏi cấp tỉnh gồm 4 HS lớp 12, có những em đã được bồi dưỡng kiến thức từ những năm trước, vì thế kết quả thi, các em đạt giải khá cao. Hai HS đạt giải 3, một HS đạt giải khuyến khích, trong đó: em Nguyễn Thị Thúy Liêm, em Huỳnh Thị Ngọc Loan đạt điểm khá cao. Với một ngôi trường còn non trẻ và chất lượng đầu vào lớp 10 còn rất thấp, kết quả HSG đạt được như trên là một điều đáng phấn khởi và khích lệ.
2- Một vài kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn văn.
2.1-Những phương cách bồi dưỡng
Với một trường mới thành lập như trường PTTH cấp II-III Võ Thị Sáu, môi trường học văn không mấy thuận lợi (sách vở, phim ảnh, tác phẩm thiếu thốn, môi trường học tập còn hạn chế) chưa có bề dày thành tích về học sinh giỏi, đội ngũ giáo viên tuổi đời, tuổi nghề rất trẻ..việc bồi dưỡng học sinh giỏi chủ yếu để tham gia thi cấp trường, tiến tới tham gia các kì thi tuyển chọn học sinh giỏi của Sở giáo dục tổ chức - có thể coi đó là cuộc thi cọ xác đánh giá chất lượng và để chọn người bổ sung vào đội tuyển của cấp cao hơn. Song trong các năm qua, số lượng học sinh giỏi bộ môn văn đạt kết quả trong các kì thi cấp huyện, cấp tỉnh (HS Khối 9 - Năm 2008-2009 thi cấp huyện đạt 3/4, có 2HS tham gia thi cấp tỉnh; năm 2009-2010 tham gia thi cấp huyện 5/5 đều đạt, một HS được chọn vào đội HSG tham gia thi cấp tỉnh), học sinh được chọn vào đội tuyển thi cấp quốc gia ngày càng nhiều so với các bộ môn khác của trường. Tổ chúng tôi xác định “mũi nhọn” chọn bồi dưỡng học sinh giỏi thi cấp trường, thi cấp tỉnh làm phương châm giảng dạy chính. Chúng tôi xác định phương hướng chung là học chính khoá đến đâu, bồi dưỡng học sinh giỏi đến đó. Đối với các học sinh lớp 10-kiến thức chưa “đủ chín” so với các học sinh lớp11,12-chúng tôi chú ý bồi dưỡng phương pháp, kĩ năng là chính, cung cấp tài liệu, thư mục để các em tìm đọc nâng cao kiến thức theo mặt bằng kiến thức chung chắc chắn.
Trong quá trình bồi dưỡng, chúng tôi lấy kiến thức của sách giáo khoa làm cơ sở dạy thật kĩ, thật sâu, thật chu đáo từng bài cụ thể, mở rộng cung cấp thêm những kiến thức sâu rộng liên quan đến chương trình chính khoá. Khi bồi dưỡng, chúng tôi vừa cung cấp kiến thức mở rộng vừa ra đề luyện tập. Những dạng đề đưa ra, từ vấn đề cụ thể đến những vấn đề khái quát, tổng hợp, từ dễ đến khó, mỗi dạng đề đều có kĩ năng thao tác cụ thể, sáng tạo đòi học sinh nắm được kiến thức đã học, vận dụng sáng tạo vào bài làm.
Về phía giáo viên bồi dưỡng, chúng tôi thống nhất chương trình, phân công từng giáo viên biên soạn giảng dạy chuyên sâu từng mảng, từng chuyên đề cụ thể dựa trên sở trường, kinh nghiệm của từng người. Qua bồi dưỡng, yêu cầu giáo viên theo sát tâm lí, thái độ học tập, tự làm việc ở nhà của học sinh.Giáo viên phải biết chắc từng học sinh nắm kiến thức chính khoá ở mức độ nào, kịp thời cung cấp, củng cố, bổ sung cho các em. Đồng thời đánh giá bài viết thu hoạch, nhận xét tỉ mỉ chu đáo từng vấn đề: về kiến thức, kĩ năng, khuyến khích bằng những lời nhận xét động viên khích lệ, biểu dương mặt tốt, sáng tạo, độc đáo. Qua chấm bài, giáo viên phát hiện sở trường, giọng văn, lối văn, sự độc đáo để uốn nắn mặt hạn chế, hướng đi lệch trong cách triển khai vấn đề của các em.
2.2-Nội dung, kiến thức bồi dưỡng học sinh giỏi.
Về nội dung chương trình bồi dưỡng, chúng tôi biên soạn dựa trên nền tảng của chương trình sách giáo khoa có nâng cao, bổ sung chiều sâu. Học đến giai đoạn nào, tác giả nào, tác phẩm nào nâng cao, mở rộng đến đó. Đối với từng giai đoạn, từng tác giả, chúng tôi cụ thể hoá thành từng chuyên đề . Chọn và giới thiệu tài liệu liên quan từng tác giả,từng vấn đề để học sinh đọc, tham khảo.Chúng tôi phân chia thành hai mảng về kiến thức và kỉ năng làm văn để cung cấp cho học sinh.
a. Về kiến thức:Ngoài việc bổ sung kiến thức được học ở chương trình, chúng tôi cung cấp kiến thức mở rộng có liên quan đến đến chương trình, biên soạn thành từng chuyên đề cụ thể. Việc bồi dưỡng chuyên đề sẽ giúp học sinh mở rộng kiến thức, hiểu biết chắc hơn về tác giả, tác phẩm, các mối quan hệ liên quan đến sự cảm hiểu, đánh giá một tác giả, tác phẩm, một hiện tượng văn học nói chung sâu sắc hơn.Chẳng hạn:
+Về lí luận văn học, chúng tôi soạn thành các chuyên đề phong cách nghệ thuật, các kiểu sáng tác ( lãng mạn, hiện thực, hiện đại ), các giá trị văn học, giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực, quá trình sáng tác và tiếp nhậnĐối với các tác giả như: Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nam Cao, Xuân Diệu, Thạch Lamchúng tôi cung cấp những yếu tố ảnh hưởng đến sự nghiệp, quá trình sáng tác, đặc điểm nổi bật của quá trình sáng tác, quan điểm sáng tác, phong cách nghệ thuậtChẳng hạn: Về Hồ Chí Minh, chúng tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu: Quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh qua một tác phẩm cụ thể. Vẻ đẹp cổ điển kết hợp hài hòa với tinh thần hiện đại qua một bài thơ. Biểu hiện chất “thép”, chất “tình” trong các sáng tác của Hồ Chí Minh; giá trị nhân đạo; Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí MinhVề Tố Hữu: Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu; Chất sử thi và cảm hứng lãng mạn được thể hiện trong thơ Tố Hữu; Về quan điểm sáng tác thơVề các phong cách tác giả trong chương trình 11,12,
File đính kèm:
- Làm thế nào để phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi môn Văn đạt hiệu quả.doc