Giới thiệu về Lịch sử Tết Nguyên đán

Từ nguyên

Nguyên nghĩa của từ "Tết" chính là "tiết". Văn hóa Đông Á – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thời") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán

 

pptx100 trang | Chia sẻ: lienvu99 | Ngày: 04/11/2022 | Lượt xem: 193 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Giới thiệu về Lịch sử Tết Nguyên đán, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Happy new year 2012 Giới thiệu về tết nguyên Đán Bình hoa mai ngày Tết Tết Nguyên đán  (hay còn gọi là  Tết Cả ,  Tết Ta ,  Tết Âm lịch ,  Tết Cổ truyền ,  năm mới  hay chỉ đơn giản  Tết ) là dịp lễ quan trọng nhất trong văn hóa  của  người Việt Nam  và một số các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa  Trung Quốc  khác. Chữ "Tết" do chữ "Tiết" ( 節 ) mà thành. [1]  Hai chữ "Nguyên đán" ( 元 旦 ) có gốc  chữ Hán ; "nguyên" có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và "đán" là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là "Tiết Nguyên Đán" (Tết Nguyên đán được người  Trung Quốc  ngày nay gọi là  Xuân tiết  ( 春節 ),  Tân niên  ( 新年 ) hoặc  Nông lịch tân niên  ( 農曆新年 ). Do cách tính của âm lịch Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc [2]  và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác. Vì  Âm lịch  là lịch theo chu kỳ vận hành của  mặt trăng  nên Tết Nguyên Đán muộn hơn  Tết Dương lịch  (còn gọi nôm na là Tết Tây). Do quy luật 3 năm nhuận một tháng của  Âm lịch  nên ngày đầu năm của dịp Tết Nguyên đán không bao giờ trước ngày 21 tháng 1 Dương lịch và sau ngày 19 tháng 2 Dương lịch mà thường rơi vào khoảng cuối  tháng 1  đến giữa  tháng 2   Dương lịch . Toàn bộ dịp Tết Nguyên đán hàng năm thường kéo dài trong khoảng 7 đến 8 ngày cuối năm cũ và 7 ngày đầu năm mới (23 tháng Chạp đến hết ngày 7 tháng Giêng). Giới thiệu về Lịch sử Tết Nguyên đán Từ nguyên Nguyên nghĩa của từ "Tết" chính là "t i ết".  Văn hóa Đông Á  – thuộc văn minh nông nghiệp lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thời") trong đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán Nguồn gốc ra đời Theo lịch sử  Trung Quốc , nguồn gốc Tết Nguyên Đán có từ đời  Tam Hoàng Ngũ Đế  và thay đổi theo từng thời kỳ. [3]  Đời Tam đại,  nhà Hạ  chuộng màu đen nên chọn  tháng giêng , tức tháng Dần.  Nhà Thương  thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức  tháng chạp , làm tháng đầu năm.  Nhà Chu  ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức  tháng mười một , làm tháng Tết. Các vua chúa nói trên quan niệm về ngày giờ "tạo thiên lập địa" như sau: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người nên đặt ra ngày tết khác nhau. Đời  Đông Chu ,  Khổng Tử  đổi ngày Tết vào một tháng nhất định là tháng Dần. Đời  nhà Tần  ( thế kỷ 3 TCN ),  Tần Thủy Hoàng  lại đổi qua tháng Hợi, tức  tháng mười . Đến thời  nhà Hán , Hán Vũ Đế  ( 140 TCN ) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần, tức  tháng giêng . Từ đó về sau, không còn  triều đại  nào thay đổi về tháng Tết nữa. [1] Trước năm  1967 , Việt Nam lấy giờ  Bắc Kinh  làm chuẩn cho âm lịch. Ngày  8 tháng 8  năm  1967 , nhà nước  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa  ban hành đổi lịch dùng  múi giờ   GMT  +7 làm chuẩn. Vì thế hai miền nam bắc Việt Nam đón  Tết Mậu Thân  hai ngày khác nhau (miền bắc ngày  29 tháng 1  trong khi miền nam thì ngày  30 tháng 1 ). Quan niệm ngày Tết Người Việt tin rằng vào ngày Tết mọi thứ đều phải mới, phải đổi khác, từ ngoại vật cho đến lòng người, vì vậy khoảng mươi ngày trước Tết họ thường sơn, quét vôi nhà cửa lại. Họ cũng tất bật đi sắm sửa quần áo mới để mặc trong dịp này. Trong những ngày Tết họ kiêng cữ không nóng giận, cãi cọ. Tết là dịp để mọi người hàn gắn những hiềm khích đã qua và là dịp để chuộc lỗi. Mọi người đi thăm viếng nhau và chúc nhau những lời đầy ý nghĩa. Trẻ em sau khi chúc Tết người lớn còn được  lì xì  bằng một phong bì đỏ thắm có đựng ít tiền dành cho chúng tiêu xài ngày Tết. Tết ở 3 miền  Bắc ,  Trung ,  Nam  ở Việt Nam cũng có những điều khác nhau. SẮM TẾT Chợ Tết là những phiên chợ có phiên họp chợ vào trước tết từ 25 tháng Chạp cho đến 30 tháng Chạp, bán nhiều mặt hàng, nhưng nhiều nhất là các mặt hàng phục vụ cho tết Nguyên đán, như  lá dong  để gói  bánh chưng ,  gạo nếp  để gói bánh chưng hoặc nấu  xôi ,  gà trống , các loại  trái cây  dùng thờ cúng (ngũ quả) để cúng  tổ tiên ,... Vì tất cả những người buôn bán hầu như sẽ nghỉ bán hàng trong những ngày Tết, những ngày đầu năm mới không họp chợ, nên phải mua để dùng cho đến khi họp chợ trở lại đưa đến mức cầu rất cao. Người Việt có câu  mồng bốn chợ ma, mồng ba chợ người  nên chợ được họp phiên đầu năm là mồng ba tết (ngày  3 tháng 1  âm lịch). Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ bái như hoa tết, những loại trái cây, đặc biệt là  dưa hấu  và những loại trái có tên đem lại may mắn như  mãng cầu ,  dừa ,  đu đủ ,  xoài ,... Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt vào trước giờ Ngọ  giao thừa . Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt. Kèm theo các chợ mua bán ngày giáp tết đông đúc, nhiều nơi còn tổ chức các chợ hoa nhằm vui xuân. Hiện nay, nhiều chợ Gốm đã được mở vào ngày giáp Tết để phục vụ người dân. DỌN DẸP, TRANG TRÍ Mâm ngũ quả Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Mâm ngũ quả của người  miền Bắc  gồm:  chuối ,  ớt ,  bưởi ,  quất ,  lê . Có thể thay thế bằng  cam ,  quýt ,  lê-ki-ma ,  hồng xiêm ,  hồng đỏ . Chuối xanh cong lên ôm lấy bưởi mang ý nghĩa đùm bọc. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Mâm ngũ quả người  miền Nam  gồm dừa, đu đủ, mãng cầu, sung, xoài với ngụ ý  cầu sung vừa đủ xài . Cây nêu ngày Tết Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6  mét [8] . Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo từng điạ phương) như  vàng mã ,  bùa trừ tà , cành  xương rồng , bầu rượu bện bằng rơm, hình  cá chép  bằng  giấy  (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây, điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc  khánh  nhỏ bằng đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu leng keng nghe rất vui tai... Ở  Gia Định  xưa, sách  Gia Định Thành Thông Chí  của  Trịnh Hoài Đức , Tập Hạ chép rằng: "bữa trừ tịch (tức ngày cuối năm) mọi nhà ở trước cửa lớn đều dựng một cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là "lên nêu"... có ý nghĩa là để làm tiêu biểu cho năm mới mà tảo trừ những xấu xa trong năm cũ". [8] Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơiđây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch còn cho đốt  pháo  ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23  tháng chạp , là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng triệt hạ, gọi là "hạ nêu" phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi hỏi". TRANH TẾT Phía trên bàn thờ thường treo một tranh dân gian vẽ ngũ quả, chiếc cuốn thư... có khi là một chữ Nho (chữ Tâm, Phúc, Đức...). Tranh Tết từ lâu đã trở thành một tập quán, một thú chơi của người dân  Việt Nam  và không chỉ người có tiền mới chơi tranh mà người ít tiền cũng có thể chơi tranh. Nó là một phần không thể thiếu trong không gian của ngày Tết cổ truyền xưa kia. Những màu sắc rực rỡ như khơi gợi nên cảm giác mới mẻ ấm cúng rộn rã sắc xuân trong mỗi gia đình của người Việt. CCÂUN ĐỐI TẾT Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo "câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những  câu đối  này được viết bằng chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng đào cho nên còn được gọi là câu đối đỏ. [10]  Bản thân chữ "câu đối đỏ" cũng xuất hiện trong câu đối Tết sau: Thịt mỡ ,  dưa hành ,  câu đối đỏ Cây nêu ,  tràng pháo ,  bánh chưng xanh . Hoa Tết Ngoài hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như  hoa vạn thọ ,  cúc ,  lay ơn ,  hoa huệ ...; hoa để trang trí thì muôn màu sắc như  hoa hồng ,  hoa thủy tiên ,  hoa lan ,  hoa thược dược ,  hoa violet ,  hoa đồng tiền ... Ngoài ra, hoa hồng, cẩm chướng, loa kèn, huệ tây, lá măng, thạch thảo... cắm kèm sẽ tạo sự phong phú và mang ý nghĩa sum họp cho bình hoa ngày tết. Màu sắc tươi vui chủ đạo của bình hoa cũng ngụ ý cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, gia đình an khang và sung túc Hoa Đàao Miền Bắc  thường chọn cành  đào   đỏ  để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu xuân. [12] Sự tích hoa đào ngày Tết: Ngày xưa, ở phía Đông núi  Sóc Sơn , có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào sum suê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Quỷ dữ hay ma quái nào bén mảng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phạt của 2 vị thần linh. Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sợ luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là bỏ chạy xa bay. Đến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu  Ngọc Hoàng . Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ, nhỡ ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ. Từ đó, hàng năm cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà trừ ma quỷ Hoa Mai Hoa Mai, với miền Nam nước  Việt , nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới rất thích hợp môi trường cho hoa Mai đơm bông nẩy lộc mỗi dịp Xuân về Tết đến.  Miền Trung  và  miền Nam  lại hay dùng cành  mai vàng  hơn miền Bắc, màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong  Ngũ hành , theo quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho sự phát triển nòi giống. [14]  Đối với người miền Nam, nếu hoa Mai nở đúng vào lúc đón giao thừa hay nở vào sáng sớm ngày mùng một Tết thì điều đó có nghĩa là sự may mắn, thịnh vượng, và hạnh phúc sẽ đến với cả gia đình trong năm đó Câay quất Tết đến,  cây quất  thường được trang trí tại phòng khách. Cây quất Tết ngày càng có nhiều kiểu dáng cầu kỳ nhưng vẫn phải bảo đảm sự xum xuê, lá xanh tốt, quả vàng chi chít thể hiện sự trù phú, hứa hẹn năm mới được mùa, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. Caác giai đoạn chính trong Tết Những ngaày cuối năm Ngàay Ông Công, Ông Taáo Tết của người Việt bắt đầu từ ngày 23 tháng Chạp, là ngày mà người Việt cúng ông Táo. Theo quan điểm của người Việt thì ông Táo vừa là thần bếp trong nhà vừa là người ghi chép tất cả những việc làm tốt xấu mà con người đã làm trong năm cũ và báo cáo với Ngọc Hoàng những vấn đề tốt xấu, những việc mà Ông Táo  tai nghe mắt thấy . Ông Táo được cúng vào trưa hoặc chiều ngày 23 tháng Chạp Âm lịch hàng năm. Lễ cúng ngoài  hương , nến, hoa quả, vàng mã còn có hai mũ đàn ông, một mũ đàn bà và ba con cá chép (cá chép thật hoặc cá chép làm bằng giấy kèm theo cỗ mũ), cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên  Thiên đình  gặp  Ngọc Hoàng . Đây là ngày dựng Cây nêu. Theo phong tục của một số dân tộc, trong đó có  người Kinh , cây nêu vừa biểu trưng cho sự tôn kính trời đất, vừa là biểu trưng cho sự tiễu trừ ma quỷ. [ Ngaày dựng Câay nêeu Ngaày goi báanh chưng Ngày gói bánh chưng Bài chi tiết:  Bánh chưng  và  Bánh giầy Theo phong tục của người Việt là ngày gói bánh chưng và chuẩn bị các món đồ tế lễ trong dịp Tết. [19]  Cũng trong ngày này, nguời ta thường đi thăm mồ mả gia tiên, sửa sang, dọn cỏ, quét vôi và làm một mâm cỗ cúng mời tổ tiên về ăn Tết với con cháu. Bánh chưng: Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó có thể truy nguyên về truyền thuyết liên quan đến hoàng tử  Lang Liêu  vào đời  vua Hùng thứ 6. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây  lúa  và thiên nhiên trong nền  văn hoá lúa nước . Bánh dày: có liên quan đến truyền thuyết  Lang Liêu , xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6. Trong đó vị hoàng tử Lang Liêu đã được báo mộng để làm ra chiếc bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất, dùng để dâng cho vua cha trong ngày đầu xuân. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về: Truyền thống của dân tộc. Giải thích ý nghĩa của bánh chưng, bánh dày. Tầm quan trọng của cây  lúa  và thiên nhiên trong nền  văn hoá lúa nước . Ngaày Tất niêen Ngày Tất niên Có thể là ngày  30 tháng Chạp  (nếu là năm đủ) hoặc 29 tháng Chạp (nếu là năm thiếu) được gọi là  ngày Tất niên . Đây là ngày gia đình sum họp lại với nhau để ăn cơm buổi tất niên. Buổi tối ngày này, người ta làm cỗ cúng tất niên. Giữa ngày 30 (hoặc 29) tháng Chạp và ngày  Mồng 1 tháng Giêng ,  giờ Tý  (từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ hôm sau), trong đó, thời điểm bắt đầu giờ  Chính Tý  (0 giờ 0 phút 0 giây ngày Mồng 1 tháng Giêng) là thời khắc quan trọng nhất của dịp Tết, đánh dấu sự chuyển giao năm cũ và năm mới, được gọi là  Giao thừa . Để ghi nhận thời khắc này, người ta thuờng làm hai mâm cỗ. Một mâm cúng gia tiên tại bàn thờ ở trong nhà mình và một mâm cúng thiên địa ở khoảng sân trước nhà. Một số cộng đồng lấy con hổ là vật thờ thì gọi là cúng  Ông Ba Mươi . Một số cộng đồng khác thì có một phần cỗ dành để cúng chúng sinh, cúng những cô hồn lang thang, không nơi nương tựa. Sắp dọn bàn thờ:  Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5 hoặc gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên từ trên trời về hạ giới...

File đính kèm:

  • pptxgioi_thieu_ve_lich_su_tet_nguyen_dan.pptx