Không gian cùng với thời gian làm nên hình thức tồn tại của thế giới, của vật chất; không gian, thời gian cũng là hình thức tồn tại của con người. Con người cũng như vật chất không thể tồn tại ngoài không gian và thời gian [7;74], nên không gian nghệ thuật cũng là một phương diện của thi pháp. Nó là phương tiện để tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật. Nó cũng là một “cánh cửa” để qua đó người đọc hiểu hình tượng và tư tưởng, thái độ của tác giả gửi vào trong tác phẩm. Vậy khi tiếp cận một tác phẩm chúng ta không thể không tìm hiểu về không gian nghệ thuật.
Trong thơ Đường có ba cảm hứng chủ đạo là Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo nên không gian trong thơ Đường cũng có ba loại.
Không gian nghệ thuật Nho giáo là những cảnh đời thế tục, có bóng dáng con người và ước vọng sống mang tính nhân văn – xã hội. Thơ Đỗ Phủ luôn quan tâm trăn trở về cảnh sống khốn khổ của dân chúng, thơ ông đúng là “sự chảy máu của tâm hồn”.
Không gian nghệ thuật Đạo giáo là những cảnh vật biệt xa khỏi cuộc sống xã hội, phiêu diêu hướng về thiên nhiên hoang sơ, hy vọng đến cõi Bồng Lai, Thiên Thai, nhà thơ trải lòng với thiên nhiên, tìm niềm vui thoát tục.
Không gian nghệ thuật Phật giáo hướng về cảnh khói nhang, tiếng chuông chùa Đạo Phật, cảnh chùa miếu u trầm lặng lẽ. [14;69].
Như vậy, khi tìm hiểu “cảm hứng xuất thế” trong thơ Đường, chúng tôi chỉ tiếp cận hai loại không gian nghệ thuật theo Đạo giáo và Phật giáo. Nhìn chung không gian nghệ thuật của những bài thơ “cảm hứng xuất thế” là một không gian bao la mênh mông, con người cô độc, lẻ loi, mơ tới một khung cảnh thần tiên của chốn Bồng Lai hay ở cõi Niết Bàn. Đó là không gian vũ trụ bao la mà con người đang muốn hòa vào, hay muốn sống ngang bằng thiên địa. Họ đã xem vũ trụ là căn bản tồn tại của thế giới khách quan, không gian vũ trụ có một ý nghĩa bao quát tuyệt đối, .Dù đi đâu, ở đâu họ cũng thấy mình trong vũ trụ, suy nghĩ về ý nghĩa đời mình trong vũ trụ. Nên khi bất đắc chí họ tìm về với thiên nhiên, vũ trụ như tìm về cội nguồn. Khi ngắm cảnh trời mây, giang sơn họ cũng như mơ màng về nguồn cội. Như vậy, mọi cảm thức về nhân sinh đều gắn với không gian. Trong bài “Tống hữu nhân” – tiễn bạn của Lí Bạch, có non xanh chắn ngang thành núi phía bắc, có nước bạc lượn ở thành phía đông, khi giã từ liền hiện ra ngọn cỏ bồng cô đơn bay vạn dặm, và trong lòng du tử đầy mây nổi, lòng người tiễn đầy bóng chiều tà vũ trụ làm thành biểu trưng của tâm hồn.
Không gian trời cao vời vợi, thi nhân muốn chiếm lĩnh, tự đồng nhất với không gian vũ trụ, để thi nhân phóng tầm mắt vạn dặm. Lý Bạch đã tìm đến trăng, trăng quên mình là trăng, người quên mình là người, trăng và thi nhân trở thành đôi bạn “Tương kì điểu vân Hán” (Hẹn hò nhau trên cao ngút Sông Ngân). Không gian vũ trụ được tính bằng khoảng cách lớn: đất trời, nhật nguyệt, nghìn mẫu, vạn dặm, nam bắc, đông tây, .Đó cũng chính là không gian nghệ thuật nhuốm màu Đạo giáo, Phật giáo, con người đang bồng bềnh trôi nổi theo quy luật tạo hóa. Từ không gian lớn nhất đến không gian nhỏ bé của bản thân, của đời người đều được thi nhân chiêm nghiệm với dáng vẻ ung dung, tự tại. Nhữ Thành trong bài “Thử tìm hiểu tứ thơ của thơ Đường” đã viết: Bầu trời và thiên nhiên là cái nền của thơ Đường .Vì thơ Đường cốt nêu lên cái thống nhất, mà tính thống nhất chủ yếu là tính thống nhất của con người với thiên nhiên cho nên tính tất yếu nó hướng về thiên nhiên. Như vậy, thi nhân Đường đã lấy thiên nhiên làm không gian bầu bạn, để thi nhân trải niềm vui, cảm hứng vào khung trời bao la vô tận. Thi nhân cảm thấy mình ở giữa lòng vũ trụ nên thi nhân khát khao giơ tay vớ lấy trời cao đến với cảnh Bồng Lai hay phóng tầm mắt nhìn xa vạn dặm cuối chân trời xanh, rồi chợt nhìn lại cảm thấy mình bơ vơ ở một điểm trung tâm trong không gian thiên địa vô cùng vô tận.
Một mình trong lùm tre,
10 trang |
Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Không gian nghệ thuật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Không gian nghệ thuật
Không gian cùng với thời gian làm nên hình thức tồn tại của thế giới, của vật chất; không gian, thời gian cũng là hình thức tồn tại của con người. Con người cũng như vật chất không thể tồn tại ngoài không gian và thời gian [7;74], nên không gian nghệ thuật cũng là một phương diện của thi pháp. Nó là phương tiện để tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật. Nó cũng là một “cánh cửa” để qua đó người đọc hiểu hình tượng và tư tưởng, thái độ của tác giả gửi vào trong tác phẩm. Vậy khi tiếp cận một tác phẩm chúng ta không thể không tìm hiểu về không gian nghệ thuật.
Trong thơ Đường có ba cảm hứng chủ đạo là Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo nên không gian trong thơ Đường cũng có ba loại.
Không gian nghệ thuật Nho giáo là những cảnh đời thế tục, có bóng dáng con người và ước vọng sống mang tính nhân văn – xã hội. Thơ Đỗ Phủ luôn quan tâm trăn trở về cảnh sống khốn khổ của dân chúng, thơ ông đúng là “sự chảy máu của tâm hồn”.
Không gian nghệ thuật Đạo giáo là những cảnh vật biệt xa khỏi cuộc sống xã hội, phiêu diêu hướng về thiên nhiên hoang sơ, hy vọng đến cõi Bồng Lai, Thiên Thai, nhà thơ trải lòng với thiên nhiên, tìm niềm vui thoát tục.
Không gian nghệ thuật Phật giáo hướng về cảnh khói nhang, tiếng chuông chùa Đạo Phật, cảnh chùa miếu u trầm lặng lẽ. [14;69].
Như vậy, khi tìm hiểu “cảm hứng xuất thế” trong thơ Đường, chúng tôi chỉ tiếp cận hai loại không gian nghệ thuật theo Đạo giáo và Phật giáo. Nhìn chung không gian nghệ thuật của những bài thơ “cảm hứng xuất thế” là một không gian bao la mênh mông, con người cô độc, lẻ loi, mơ tới một khung cảnh thần tiên của chốn Bồng Lai hay ở cõi Niết Bàn. Đó là không gian vũ trụ bao la mà con người đang muốn hòa vào, hay muốn sống ngang bằng thiên địa. Họ đã xem vũ trụ là căn bản tồn tại của thế giới khách quan, không gian vũ trụ có một ý nghĩa bao quát tuyệt đối,….Dù đi đâu, ở đâu họ cũng thấy mình trong vũ trụ, suy nghĩ về ý nghĩa đời mình trong vũ trụ. Nên khi bất đắc chí họ tìm về với thiên nhiên, vũ trụ như tìm về cội nguồn. Khi ngắm cảnh trời mây, giang sơn họ cũng như mơ màng về nguồn cội. Như vậy, mọi cảm thức về nhân sinh đều gắn với không gian. Trong bài “Tống hữu nhân” – tiễn bạn của Lí Bạch, có non xanh chắn ngang thành núi phía bắc, có nước bạc lượn ở thành phía đông, khi giã từ liền hiện ra ngọn cỏ bồng cô đơn bay vạn dặm, và trong lòng du tử đầy mây nổi, lòng người tiễn đầy bóng chiều tà vũ trụ làm thành biểu trưng của tâm hồn.
Không gian trời cao vời vợi, thi nhân muốn chiếm lĩnh, tự đồng nhất với không gian vũ trụ, để thi nhân phóng tầm mắt vạn dặm. Lý Bạch đã tìm đến trăng, trăng quên mình là trăng, người quên mình là người, trăng và thi nhân trở thành đôi bạn “Tương kì điểu vân Hán” (Hẹn hò nhau trên cao ngút Sông Ngân). Không gian vũ trụ được tính bằng khoảng cách lớn: đất trời, nhật nguyệt, nghìn mẫu, vạn dặm, nam bắc, đông tây,….Đó cũng chính là không gian nghệ thuật nhuốm màu Đạo giáo, Phật giáo, con người đang bồng bềnh trôi nổi theo quy luật tạo hóa. Từ không gian lớn nhất đến không gian nhỏ bé của bản thân, của đời người đều được thi nhân chiêm nghiệm với dáng vẻ ung dung, tự tại. Nhữ Thành trong bài “Thử tìm hiểu tứ thơ của thơ Đường” đã viết: Bầu trời và thiên nhiên là cái nền của thơ Đường .Vì thơ Đường cốt nêu lên cái thống nhất, mà tính thống nhất chủ yếu là tính thống nhất của con người với thiên nhiên cho nên tính tất yếu nó hướng về thiên nhiên. Như vậy, thi nhân Đường đã lấy thiên nhiên làm không gian bầu bạn, để thi nhân trải niềm vui, cảm hứng vào khung trời bao la vô tận. Thi nhân cảm thấy mình ở giữa lòng vũ trụ nên thi nhân khát khao giơ tay vớ lấy trời cao đến với cảnh Bồng Lai hay phóng tầm mắt nhìn xa vạn dặm cuối chân trời xanh, rồi chợt nhìn lại cảm thấy mình bơ vơ ở một điểm trung tâm trong không gian thiên địa vô cùng vô tận.
Một mình trong lùm tre,
Dạo đàn lại huýt gió.
Rừng thẳm chẳng ai hay,
Rọi nhau có trăng tỏ
(Vương Duy – Trúc lý quán)
Hay Lý Bạch trong bài “Hạ chung Nam Sơn quá Hộc Tư Sơn nhân túc trí tửu” đã nói.
Mộ tòng bích sơn hạ
Sơn nguyệt tùy nhân qui.
(Chiều hôm bước xuống chân đèo,
Ánh trăng trên núi cũng theo người về)
Rõ ràng, ta thấy con người ở vị trí nào thiên nhiên cũng bao quanh và khi con người di chuyển thì cả vũ trụ cũng chuyển dời theo để con người ở vị trí trung tâm. Đó là không gian vũ trụ bao bọc con người và con người luôn tương thông, tương cảm với trời đất, với thiên nhiên, vạn vật làm cho không gian được mở ra từ mọi phía. Nó nói đến mọi chiều không gian là để bày tỏ khát vọng chiếm lĩnh, đồng thời cũng để nói lên rằng cá nhân nhỏ bé của thi nhân đã giao hòa vào vũ trụ. Do ở vị trí trung tâm nên, con người cảm thấy bé nhỏ, cô đơn giữa vũ trụ vô hạn vô cùng, tạo nên một không gian mang tính đối xứng. Do đó, không gian luôn mang tính chất mở, có khuynh hướng giãn nở để đưa tâm hồn con người lan tỏa vào không gian, vượt không gian. Trong “cảm hứng xuất thế” ẩn sĩ bao giờ cũng về với rừng núi hay đồng nội trên cao và không gian nơi hoang vắng chùa chiền, ở nơi ghềnh đá buông cần câu, bên khóm trúc, bên lũy tre xanh,….Ẩn sĩ trở nên nhàn nhã, thanh cao, tâm hồn rộng mở khiến không gian thơ mở ra không gian tâm trạng. Đó cũng là sự hòa điệu của con người vũ trụ, của không gian nội tâm với không gian ngoại giới. Ẩn sĩ ấy, không gian ấy tạo cho ta cảm giác: Bước vào thế giới thơ Đường ta bước vào thế giới hòa điệu. Đây cũng là không gian hòa điệu.
Không gian nghệ thuật trong những bài thơ Đường có “cảm hứng xuất thế” mang sự tĩnh lặng, vắng vẻ, đơn sơ. Đó là không gian tĩnh tương ứng với thời gian hoài cổ. Có khi không gian tĩnh lặng cũng được thể hiện ở giữa trời thẳm xanh.
Cuối năm nếu muốn sang chơi
Cưỡi con rồng trắng giữa trời thẳm xanh.
(Lý Bạch – Tống Dương sơn nhân quy Tung Sơn)
Hay bằng hình tượng của một đạo sĩ nhẹ nhàng thả thuyền dạo chơi theo kiểu Đạo giáo.
Nhân sinh tại thế bất xứng ý
Minh triêu tán phát lộng biên chu
(Người sinh ở đời không xứng ý
Mai đây xõa tóc thả thuyền chơi).
Từ “cảm hứng xuất thế” đã tạo nên một không gian siêu nhiên rộng lớn và khoáng đạt, nhằm thể hiện khát khao của thi nhân muốn vượt vũ trụ để đến với thế giới thần tiên.
Lên cao trông ra bốn bể
Trời đất mênh mông biết bao.
(Lý Bạch – cổ phong)
Hình ảnh của ẩn sĩ lẫn khuất trong núi hay hình ảnh của thi nhân lên tận đỉnh núi cao để nhìn ra bốn bể, đã tạo nên một không gian tượng trưng thể hiện một khát vọng vượt hiện thực. Do không thể hòa nhập với thực tại, thi nhân Đường đã lui về ẩn dật, “xuất thế” trong trạng thái nhàn nhã, thanh bần, thư thái như không, tạo nên một không gian ẩn dật cao khiết, thoáng đãng để con người có thể cảm thụ nhân sinh. Đó là không gian xuất thế.
Quân tiễu bích ma thiên
Tiêu dao bất kế niên
Bác vân tầm cổ đạo
Tỷ thụ thích lưu tuyền.
(Những ngọn núi đâm thủng bầu trời cao vợi
Tiêu dao không kể tháng ngày
Vén mây tìm con đường cũ
Tựa vào cây nghe tiếng suối róc rách).
(Lý Bạch)
Không gian nghệ thuật trong thơ “cảm hứng xuất thế” cũng có khi là không gian trong thế tương phản, nhằm thể hiện sự băn khoăn về lẽ xuất xử (nhập thế hay là xuất thế) với những hình ảnh thiên nhiên mênh mông, trường cửu như dòng sông, con đường, ngọn núi, ánh trăng, cánh buồm….hay nỗi băn khoăn trong nỗi hoài niệm, đưa tiễn cố nhân. Lưu Trường Khanh trong bài ‘Tiễn biệt Vương Thập Nhất nam du” đã thể hiện.
Phi điểu một hà xứ
Thanh sơn không hướng nhân.
Trường Giang nhất phàm viễn,
Lạc nhật ngũ hồ xuân.
(Tuyệt vời chim nẻo nào bay ?
Xanh xanh chỉ ngọn núi này nhìn ta.
Sông dài một lá buồm xa,
Năm hồ in bóng dương tà chiều xuân)
Như vậy, thi nhân Đường đã lấy không gian của vũ trụ thực tại để biến thành không gian nghệ thuật, qua đó thể hiện quan niệm, lý tưởng và lẽ sống của thi nhân. “Cảm hứng xuất thế” đã chi phối cho việc tạo ra không gian nghệ thuật của những bài thơ nói về “xuất thế”. Từ không gian rừng sâu, núi thẳm đến không gian “Bồng Lai” nơi tiên giới đều chứa đựng hành động “quay lưng” với thực tại của thi nhân khi nghĩ về ở ẩn cư hay đã thực sự sống một đời ẩn dật. Không phải thi nhân không yêu đời, yêu cuộc sống trái lại chính vì yêu đời, yêu cuộc sống mà thi nhân đôi lúc đã có “cảm húng xuất thế” được bộc lộ qua những bài thơ của mình. Vì cuộc sống đương đại đời Đường không như ước mơ, lý tưởng của thi nhân nên họ mới đau lòng, xót xa nhưng bất lực không thể biến đổi gì hơn. Họ đành phải “xuất thế” là như vậy. Bởi không yêu đời yêu cuộc sống thì đâu cần phải đau lòng, xót xa làm chi. Để nói lên sự buồn chán muốn trở về cuộc sống nhàn nhã, thanh cao của người ẩn dật, thi nhân đã tạo dựng những không gian nghệ thuật phù hợp với “cảm hứng xuất thế” của mình. Không gian nghệ thuật trong thơ Đường tương tự như nghệ thuật tạo vườn của người Trung Quốc, thích tạo cảnh sơn thủy kề nhau, cây rừng trùng điệp, đỉnh non hiện qua khung cửa, bóng hoa chiếu lên tường, đường núi quanh co, ngoài vườn có vườn, ngoài cảnh có cảnh. Nó tựa như hội họa và thư pháp Trung Hoa chú trọng phối hợp gần xa, thưa dày, hữu vô, tĩnh động. Những câu thơ nổi tiếng đều là sự phối hợp của các biểu tượng không gian làm hiện ra cái thần thái, sức sống của cảnh vật [19;27]. Qua sự thể hiện không gian nghệ thuật thi nhân muốn thể hiện: con người trong sự hô ứng với vũ trụ thể hiện trong hệ không gian vũ trụ cao – viễn cho một hình khá viên mãn về thế giới của sự hòa điệu – thế giới Đường thi.
Không gian lữ thứ trong thơ Đường
Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thời hoa
(Cây xuân chẳng biết người đi hết
Xuân tới hoa xưa vẫn nở đều)
Có lẽ hình ảnh khái quát ở hai câu thơ trên trong bài Sơn phòng xuân sự của nhà thơ nổi tiếng Sầm Tham phần nào nói lên sự bất tử của thơ Đường qua bao thăng trầm, biến thiên của thời cuộc và qua cả sự bào mòn nghiệt ngã của thời gian. Bởi, cảnh sắc và tâm hồn Trung Hoa xưa đã kết đọng trong thơ Đường. Và, sự tồn tại bền vững ấy trước hết là nhờ cội rễ văn hóa lâu đời, là sự thấm nhuần những nguyên lý mĩ học Trung Hoa trong sáng tác: huyền thoại chi âm, cam dư chi vị, ngôn ngoại chi ý. Cái hay, cái đẹp của nghệ thuật văn chương hầu như đều có chung một cội nguồn.
Đến với thơ Đường không chỉ là đến với “sắc liễu bên bờ sông Dương Tử, những cành mai đợi tuyết ở núi Cô Sơn, tiếng chuông chùa ở núi Hàn San, chòm mây trắng trên lầu Hoàng Hạc” hay “Ải Ngọc Môn gió xuân không bao giờ thổi tới, sông Hoàng Hà tuôn nước xuống tự trời cao”, mà còn đến với những trăn trở rất riêng sau khi thưởng thức, ngẫm thấy và nhận thấy bao nhiêu nỗi niềm riêng tây, vi tế, những sóng ngầm của cõi lòng, những niệm thức đã bắt gặp sự giao hòa qua những vần thơ ấy. Và có lẽ sau khi đã gạt qua tất cả những thủ pháp nghệ thuật, những kĩ xảo tinh luyện của một nền văn học đạt đến đỉnh cao trong đời sống tinh thần nhân loại, còn lại là sự tồn tại của một không gian tinh thần, không gian xuyên thấu mà ở đó con người (thi nhân và độc giả) ý thức được sự tồn tại của mình, không lu mờ, không hòa lẫn, không phát ngôn hay đại diện cho bất cứ điều gì khác ngoài tình cảm của con người.
Trong cuộc sống bưng bít ở nông thôn thời trung đại dưới chế độ độc quyền phương Đông (absolutisme oriental – chữ dùng của Karl Marx), nhà thơ – nhà nho khư khư ngồi giữ lấy “xóm cùng làng hẻm”, “lìa nhà mười dặm đã bùi ngùi mưa gió hoa vàng, ở lữ thứ vài năm đã than thở quan hà đầu bạc”. Bởi suy cho cùng, “nhà nho và người nông dân – hai nhân vật nông thôn” khi ra khỏi không gian gia đình, làng họ, không gian hương tính, nhà nho - nhà thơ khi đỗ đạt, được bổ nhiệm làm quan và trong thời gian làm quan có thể bị biếm trích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, cầm quân ở chốn biên cương thì nỗi cô đơn, bơ vơ nơi đất khách quê hương, nỗi niềm hoài niệm về cố hương lại trở đi trở về đến nhức buốt, tái tê. Tất cả những nỗi niềm ấy được gửi gắm vào những vần thơ bàng bạc sắc màu của không gian lữ thứ. Vì, đối với nhà thơ trong tình cảnh như thế phải ra đi, phải rời xa làng - họ gia đình là điều rất khó khăn, là chuyện đoạn trường.
Có thể thấy, trong thế giới thơ Đường hiện hữu một lằn ranh vô hình giữa hai không gian sáng tác của thi nhân thời đại hoàng kim của thơ ca Trung Hoa: không gian gia đình, làng họ và không gian lữ thứ. Và kiểu loại không gian thứ hai, không gian lữ thứ lại là không gian rất đặc trưng cho thơ của nho sĩ-trí thức quan liêu. Chỉ khi ở vào trong không gian lữ thứ, những “thuộc tính cố hữu” của nhà thơ (vốn xuất thân từ nhà nho và có chịu ảnh hưởng của các luồng tư tưởng khác) mới bộc lộ một cách sắc nét, rõ ràng nhưng hữu tình và thấm đẫm tâm trạng. Trong không gian bị bứng khỏi môi trường quen thuộc cũ, những cảm thức của một con người trí quân trạch dân, những khắc khoải mong sao muôn dân được sống trong “khoan, giản, an, lạc”, mẫu người lí tưởng mà nhà thơ - nhà nho hướng đến là nội thánh ngoại vương, tu kỉ trị nhân có dịp bộc lộ. Con người xã hội với những trách nhiệm của bản thân tác giả có một không gian tách biệt để suy tư, ngẫm ngợi, kiểm chứng... Nếu không tồn tại trong không gian lữ thứ, những điều mà tác giả sở kiến chỉ tồn tại trong không gian gia đình làng quê vốn được coi là gốc rễ bình yên. Và chỉ khi rời làng quê thì hàng loạt cảm xúc mới lạ mới chợt ùa về trong lòng thi nhân như lòng tư hương, cảm thức biệt ly, sự bình an khi trở về với nguyên tâm của chính mình trên hành trình du lãm lấy thiên nhiên làm bạn... mà có lẽ trong không gian thứ nhất những cung bậc cảm xúc ấy ngủ yên, che lấp.
Hơn nữa, qua những bài thơ Đường được sáng tác trong không gian lữ thứ, người đọc còn cảm nhận được phong cách độc đáo không lặp lại của từng nhà thơ, sự tài tình trong việc xử lý các chi tiết, cách chọn đề tài, tìm thấy những bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ để rồi tự thấy rằng thiên nhiên trong trẻo trong thơ Đường không còn là thực tại khách quan nữa mà là thực tại tâm lý, thực tại ý niệm. Đâu đó trong thơ, còn là những cá tính, những khát vọng bay lên khỏi cuộc đời trần tục cùng những thất vọng bế tắc của các nhà thơ - ông quan trên mỗi bước đường hoạn lộ.
Qua việc tìm hiểu không gian lữ thứ trong thơ Đường, phần nào đó những quan niệm tưởng chừng như rất xa với cuộc sống của con người hiện đại, tưởng chừng như đã nhạt nhòa phôi pha theo dòng chảy của thời gian như quan niệm về nhân cách con người - xuất phát điểm những đặc trưng văn hóa mĩ học, quan niệm về thế giới tự nhiên, quan niệm về xã hội và vị trí của nhân cách trong cấu trúc ấy... có dịp được tái hiện. Để qua đó, dù cảm để hiểu hay hiểu để cảm thì vẻ đẹp xưa của một thời cũng làm cho trái tim người đọc mềm lại, để những cung bậc cảm xúc lẩn khuất đâu đó có dịp ùa về, để thấy sự tồn tại của mình trên cuộc đời là có ý nghĩa... Bởi đâu đó phảng phất trong những bài thơ Đường qua không gian lữ thứ những tâm sự của mình đã được ai đó nói hộ bằng thơ và hơn nữa bằng cả một tấm lòng. Thơ Đường quả thật đã cất cánh trong không gian lữ thứ.
1.1. Góc nhìn loại hình, thi pháp
Không gian lữ thứ là một không gian đẹp. Đẹp bởi sự mênh mang xa vắng mơ hồ mà vỏ âm Hán Việt đã cấp cho nó. Đẹp bởi những sắc độ mờ ảo về mặt ngữ nghĩa. Và đẹp bởi cả một nỗi buồn vương vấn nhẹ nhàng mà kẻ tha nhân, người lữ thứ chất chứa trong lòng. Nhờ vẻ đẹp đó, không gian lữ thứ trở thành một địa hạt hợp lý của văn chương. Nhưng chính vì vẻ đẹp mông lung huyền ảo đó mà việc gọi tên xác định đúng những nội hàm quả không dễ dàng. Phải chăng không gian lữ thứ trong thơ Đường là cái không gian mà độc giả cảm nhận được khi đọc những bài thơ do các thi nhân đương thời sáng tác trong không gian xa quê: nơi những nhà thơ trị nhậm với tư cách mệnh quan triều đình, trên đường nhà thơ đi đến nơi bị biếm trích, các thi nhân trên đường chạy loạn, tại những địa điểm nhà thơ bị biếm trích, thậm chí ở trong tù và cả những nơi thi nhân du lãm, khi tiễn biệt tri kỉ trước khi dấn thân trên chốn đường xa mịt mù mà không biết ngày tái ngộ?
Không gian trong thơ Đường là một không gian đậm chất phương Đông thiên về gợi nhiều hơn tả. Và chính yếu tố này khi gặp trí tưởng tượng của độc giả đã giúp hình dung ra những bức tranh khác biệt trên nền một cảnh sắc chung. Nhưng dưới góc độ loại hình, không gian trong thơ Đường có thể hình dung thành hai loại lớn: không gian lữ thứ và không gian gia đình làng họ, không gian hương tính. Việc hình dung không gian lữ thứ trong thế đối chiếu so sánh với không gian hương tính, làng họ giúp nêu bật những đặc trưng của hai kiểu không gian này. Một bên là không gian của sự bình yên, của gốc rễ, của sự tĩnh tâm; một bên là không gian với những sự xao động, của những sự khám phá, của những điều “sở kiến”, “tận mục sở thị”, của quá trình trải nghiệm, chiêm nghiệm và chứng nghiệm của nhà thơ. Chỉ khi, phải đặt trong cảnh “đoạn trường”- phải đi xa, người đọc mới cảm nhận được đủ đầy những xáo động trong tâm trạng của nhà thơ:
Tạc dạ nhàn đàm mộng lạc hoa,
Khả liên xuân bán bất hoàn gia
(Đêm qua trên đầm vắng mơ thấy hoa rơi
Thương thay nửa xuân rồi mà chưa trở về nhà)
- Trương Nhược Hư, Xuân giang hoa nguyệt dạ
Phải chăng cái cảm giác cô liêu, trống vắng, bơ vơ nơi đất khách đã làm nên một “đêm hoa trăng trên sông xuân” vốn chất chứa nỗi nhớ của người du tử đối với người khuê phụ trở thành một bài thơ trữ tình nổi tiếng, trở thành “cô thiên hoành tuyệt, cánh vi đại gia” (chỉ một thiên tuyệt diệu, đủ xứng đáng là đại gia - nhận xét của nhà nghiên cứu văn học đời Thanh Vương Khải Vận)? Và phải chăng, chỉ có nơi đất khách ấy nhìn về quê nhà trong đêm trăng vắng lặng đến mức nghe được tiếng cá quẫy thì hình ảnh “ai ở lầu trăng nhớ chốn nào?” (Hà xứ tương tư minh nguyệt lâu?) mới trở nên da diết, nhức nhối trong lòng người đi lẫn kẻ ở, trong lòng thi nhân lẫn độc giả? Trong khi đó, những phút giây bình yên ngắn ngủi bên gia đình, bên những gì thân thuộc hiếm hoi trong cuộc đời đầy biến động đã đem đến cho Đỗ Phủ cái cảm giác tri túc:
Thanh giang nhất khúc bão thôn lưu
Trường hạ giang thôn sự sự u
Tù khứ tự lai lương thượng yến
Tương thân tương cận thủy trung âu
Lão thê họa chỉ vi kì cục
Trí tử xao châm tác điếu câu
Đa bệnh sở tu duy dược vật
Vi khu thử ngoại phục hà cầu?
(Thanh giang một dải nước bao quanh
Dằng dặc ngày hè xóm vắng tanh
Lũ én ra vào trên mái rạ
Đàn âu quen biết giữa sông xanh
Kẻ bàn cờ giấy cùng bu nó
Uốn lưỡi kim câu với trẻ ranh
Ốm mãi cũng nên quen vị thuốc
Thân hèn đâu tưởng chuyện công danh)
- Đỗ Phủ, Thanh giang
Có thể thấy sự khác biệt cơ bản về phong vị thơ ở hai không gian khác nhau. Trong không gian hương tính, nhà thơ được sự trợ giúp về mọi mặt của gia đình, làng họ; thơ Đường được trứ tác trong hoàn cảnh đó không thể hiện nỗi cô đơn của thi nhân, không bày tỏ nỗi ca thán chính sự, sự đau khổ cùng cực của dân chúng, không mô tả những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hoành tráng, không thể hiện một cách ấn tượng sự hòa hợp của con người với trời đất, vũ trụ. Và vì thế, sự xuất hiện và tồn tại của không gian lữ thứ đã mang lại những sắc thái mới cho thơ Đường. Những sắc thái mới ấy không chỉ làm nội dung thơ Đường trở thành một bức tranh toàn bích, mà còn kéo theo sự xuất hiện hàng loạt các phép sử dụng từ, các biện pháp tu từ. Đến lượt mình, các biện pháp nghệ thuật ấy lại khơi mở trong lòng người đọc những phát hiện thú vị: các “pháp” này cho thấy người Trung Quốc xưa thường dùng con mắt hội họa hoặc con mắt không gian để hình dung ra nghệ thuật ngôn từ [6, tr.15].
Như vậy, thơ Đường hiện hữu một lằn ranh giữa những bài thơ được viết trong hai không gian khác biệt. Nhưng lằn ranh này lại khơi gợi trong lòng người viết rất nhiều suy ngẫm. Trước hết, ranh giới vô hình giữa hai không gian thơ có tính chất khu biệt để thấy được sự sáng tạo, tài năng, phong cách, giọng điệu của từng nhà văn trong mỗi không gian riêng biệt, để từ đó thơ Đường không chỉ là tinh hoa mẫn tuệ của ngôn ngữ trực quan mà còn là một kiến trúc đầy âm vang (chữ dùng của Đỗ Đức Hiểu). Sau nữa, sự tồn tại của lằn ranh ấy không vô tình, hờ hững, lạnh lùng bởi nó không làm tách bạch rạch ròi hai khoảng không trong sáng tác đó. Bản thân lằn ranh ấy đã chấp nhập sự giao thoa, chấp nhận sự tương thông và tương hợp của hai kiểu không gian. Chính sự giao thoa ấy thơ Đường đã làm mới mình trong cách cảm nhận của người đọc. Dòng chảy của lịch sử nghiên cứu thơ Đường do thế luôn luôn bất tận, vì lịch sử văn hóa không chỉ là lịch sử sáng tạo ra sản phẩm mới, mà còn là lịch sử giải thích mới các hiện tượng đã biết [6, tr.22].
Dưới góc nhìn của thi pháp, thơ Đường cũng hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp của nó. Đó không chỉ là vẻ đẹp do sự khác biệt về thể loại, về hình thức. Nếu vẻ đẹp thơ lục bát là vẻ đẹp mềm mại của nước, của các vần thơ níu nhau làm thành một chuỗi âm thanh liền lạc, uốn lượn, nếu vẻ đẹp mang màu sắc minh triết của thơ hài cú (haikư) được cảm nhận qua lăng kính Thiền thì thơ Đường lại mang vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính: vẻ đẹp của mưa buổi sáng như một làn bụi nhẹ làm cho sắc lá xanh càng xanh thêm (Mưa mai thấm bụi Vị thành/ Liễu bên quán trọ sắc xanh ngời ngời), của khói sóng trên sông trong một buổi chiều hoài cố về quê cũ (Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai), của một tiếng chim kêu lanh lảnh trong khe núi mùa xuân (Trăng lên chim thảng thốt/ Khe vọng tiếng chim kêu), của một tiếng quạ kêu thảng thốt, lẻ loi trong đêm và cái nỗi sầu len vào giấc ngủ chập chờn của hàng cây phong đối diện với ánh lửa chài (Trăng tà chiếc quạ kêu sương / Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ)...
Không gian lữ thứ với tư cách là một hình tượng nghệ thuật đã góp phần làm nên vẻ đẹp của Đường thi. Không gian lữ thứ không chỉ nắm bắt sự cảm nhận những sắc thái riêng biệt của không gian địa lý và không gian tâm lý như những vô thức tập thể của dân tộc Trung Hoa. Sự nắm bắt này đã làm cho thơ Đường Trung Hoa khác biệt với lục bát Việt Nam, với haikư của Nhật Bản. Không gian lữ thứ còn là sự giao hòa của không gian sự kiện, không gian bối cảnh, không gian tâm lý và cả không gian kể chuyện. Sự song hành của những kiểu không gian này đã làm nên những tên tuổi đỉnh cao như thi tiên Lí Bạch, thi thánh Đỗ Phủ, thi Phật Vương Duy, thi quỷ Lý Hạ và rất nhiều nhà thơ được bao thế hệ bạn đọc yêu mến.
1.2. Góc nhìn chủ thể sáng tạo - nhân vật trữ tình
Một trong những điểm nhìn đặc biệt để cảm nhận không gian trong tác phẩm là đặt mình vào vị trí tác giả. Chính tác giả sẽ là người hiểu rõ hơn ai hết về không gian mà mình cảm thụ, xây dựng và thể hiện nó trong tác phẩm của mình. Và không gian ấy đã góp phần hình thành nên phong cách riêng của từng nhà văn nhà thơ, góp phần thể hiện một thế giới quan độc đáo khó lẫn của từng tác giả. Trong thơ trữ tình, một thể loại đặc biệt của văn học, trong đó có thơ Đường, sự gặp gỡ của chủ thể sáng tạo - tác giả bài thơ với nhân vật trữ tình trong tác phẩm là điều không thể phủ nhận. Bởi thơ là để gửi gắm nỗi lòng, là để kí thác tâm sự. Bản chất của thơ ca là thể hiện đời sống nội tâm của nghệ sĩ. Không gian lữ thứ cũng góp phần thể hiện đời sống nội tâm với nhiều sự dao động ấy. Vì một trong những động lực sáng tạo của nhà thơ chắc chắn là cái nhu cầu tự cảm thấy mình có vai trò cốt yếu đối với thế giới. Khi tự cảm thấy mình như thế, với nghệ sĩ, viết là một hành động sáng tạo, một “cuộc chơi” có nghĩa lý, một “dấn thân” thực sự về tinh thần [4, tr.14].
Dưới góc độ là những số phận người đã phải trải qua nỗi đoạn trường, phải dấn thân vào một miền đất lạ nơi đất khách quê người, nơi miền quan ải mà ngọn gió xuân không bao giờ thổi tới, không gian lữ thứ đã được các nhà thơ cảm nhận tất cả độ nét của nó. Vì thế, trong thơ của các thi nhân không gian lữ thứ luôn xuất hiện ở một trong hai dạng thức: không gian lữ thứ thực và không gian lữ thứ ảo (không gian lữ thứ gián cách).
Không gian lữ thứ thực là không gian mà tác giả “trực tiếp” thuộc về nó. Sống và đắm chìm trong dạng thức đó, trực tiếp phát sinh những tình cảm sâu sắc nhưng đầy màu sắc cá nhân của từng tác giả. Nói cách khác, với vai trò là một lữ khách, một chinh nhân, một du tử, con người của nhà thơ đã bộc lộ rất nhiều những đặc tính mà trong môi trường yên ổn của không gian gia đình làng họ khó có cơ hội bộc lộ. Quay cuồng với những ràng buộc, những trọng trách mà con người phải gánh trong cuộc đời thực, cái Tôi nhà thơ chỉ có cơ hội thể hiện trong những môi trường đặc biệt: một mình, cô độc. Và, không gian lữ thứ là chất xúc tác tuyệt vời cho những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn thi nhân được gửi gắm vào thơ. Từ dạng thức không gian ấy, rất nhiều cung bậc tình cảm cảm xúc đã được gọi thành tên: lòng hoài niệm, sầu li biệt, sầu lữ thứ, sầu tư hương... Và từ những tình cảm đã gọi thành tên đó, nhà thơ đã đưa người đọc về lại cái thực tế hiện hữu của từng con người: nỗi buồn.
Ở vào một thực tại phũ phàng là phải xa quê: lên đường nhậm chức, tri nhiệm, trấn áp vùng biên cương, đi theo tiếng gọi trách nhiệm của một nhà nho- ông quan chân chính thể hiện được khát vọng vẫy vùng thỏa chí bình sinh, hay những lúc sa cơ lỡ vận của người anh hùng mạt lộ bị biếm trích, bị đày ải, hay những phút giây bình yên với chính mình trên con đường du lãm, thi nhân luôn sống thực với chính mình, và thơ đã trở thành bầu bạn của nhà thơ để chia sẻ những khoảnh khắc “đoạn trường” đó. Cho dù sự xa quê là lựa chọn của thi nhân,
File đính kèm:
- Không gian nghệ thuật.doc