Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu.
Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.Nhằm thực hiện đúng nội dung, tinh thần của cuộc vận động “Hai không” mà đặc biệt là nội dung “không để HS ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giảm dần số HS yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
12 trang |
Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1218 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp làm tốt công tác phụ đạo học sinh yếu khối 4&5, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Tầm quan trọng của công tác phụ đạo học sinh yếu:
Vấn đề học sinh yếu hiện nay luôn được xã hội quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục nước nhà phát triển toàn diện thì người giáo viên không những chỉ biết dạy mà còn phải biết tìm tòi phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh và hạ thấp dần tỉ lệ học sinh yếu. Vấn đề nêu trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên. Nhưng ngược lại, giải quyết được điều này là góp phần xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới công tác dạy và phụ đạo học sinh yếu không chỉ là trách nhiệm mà còn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặc khác, nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương. Với những lí do trên, ngay đầu năm học, từ giai đoạn tổ chức lớp cho đến khi giảng dạy, bản thân luôn chú ý, quan tâm đến việc giúp đỡ học sinh yếu.
Đây sẽ là nền tảng, là động lực để thúc đẩy các em tiếp thu bài đầy đủ, được trau dồi tri thức và tiếp tục vươn xa trên con đường học vấn của mình.Nhằm thực hiện đúng nội dung, tinh thần của cuộc vận động “Hai không” mà đặc biệt là nội dung “không để HS ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, giảm dần số HS yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
a. Thuận lợi:
- Về phía nhà trường:
+ Được sự quan tâm lãnh chỉ đạo của Phòng giáo dục, Đảng ủy, chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể tại địa phương.
+BGH nhà trường đã quan tâm nhiều đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy. Vì vậy, thực hiện tốt việc lên kế hoạch, soạn giảng…phụ đạo học sinh yếu.
+ Đội ngũ CB- GV-CNV có tinh thần tự giác, ý thức trách nhiệm, vững vàng về chuyên môn có kinh nghiệm tạo được uy tín trong phụ huynh.
+Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ nên học sinh có điều kiện tốt cho học sinh trong việc học tập của học sinh.
- Về phía học sinh:
+ Đa số các em học sinh có tinh thần xây dựng tập thể. Có đội ngũ cán lớp bộ nhiệt tình, năng nổ.
+ Đa số học sinh ngoan, hiền thực hiện tốt nội quy nhà trường.
b. Khó khăn:
- Về phía phụ huynh:
+Một số phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con cái mà thường phó mặc cho thầy cô theo kiểu: “ Trăm sự nhờ thầy cô”.
+ Đặc biệt là những gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bố mẹ đi làm xa nên việc chăm sóc con cái không được chu đáo.
- Về phía học sinh:
+ Một số em chưa có ý thức cao, còn lơ là trong việc học, còn mải chơi mà lơ là trong việc học. Chưa coi việc học là của bản thân mình mà còn trông chờ vào sự thúc giục của bố mẹ và thầy cô giáo.
+Trong lớp vẫn còn nhiều em lười học bài cũ, hỏng kiến thức cơ bản từ các lớp dưới.
-Nhìn chung học sinh chưa có khả năng tự học, tiếp thu bài còn thụ động.
Mặt bằng dân trí có phần thấp, kém hơn so với một số xã trong địa bàn huyện. Nhận thức của phụ huynh còn hạn chế. Sự quan tâm giáo dục của gia đình đối với các em chưa đúng mức, nhiều phụ huynh còn quan niệm việc giảng dạy và giáo dục học sinh là do nhà trường đảm nhiệm. Việc này đồng nghĩa với việc khoán trắng trọng trách cho người giáo viên. Mặt khác cũng có gia đình quan tâm tới việc học của con em mình nhưng lại không nắm được nội dung giảng dạy cũng như phương pháp dạy dẫn tới hiệu quả không cao. Thậm chí có trường hợp dạy sai dẫn tới các em nhận thức lệch hướng của vấn đề. Chính những khó khăn này ảnh hưởng trực tiếp đến việc học của các em.
Bên cạnh đó ngoài giờ học các em còn phải tiếp giúp gia đình như: cắt lúa, phơi lúa mướn cùng cha mẹ để tăng thêm thu nhập cho gia đình. Vì thế khi tới mùa vụ tỉ lệ nghỉ học của các em tương đối cao.
- Về phía giáo viên:
+Thời lượng một tiết học chỉ 40 phút, kiến thức truyền đạt cho học sinh tương đối nhiều. Trong khi đó khả năng tiếp thu của các em không đồng đều.
+ Công tác quan hệ với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên.
+ Còn có nhiều học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo. Học sinh yếu thường xuyên nghỉ học và không chịu tiếp thu bài.
+ Công tác quan hệ với phụ huynh học sinh chưa được thường xuyên.
+ Còn có nhiều học sinh gia đình có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo.
+ Một số học sinh thiếu thốn tình cảm (như chỉ ở với mẹ hoặc bố, cha mẹ làm ăn xa) nên các em không được quan tâm, giáo dục toàn diện như các bạn cùng trang lứa, có em còn có những biểu hiện mặc cảm tự ti, không dám hòa mình trong mọi hoạt động chung của lớp.
+ Giáo viên chưa nắm vững tâm lý học sinh, thường có thiện cảm với học sinh khá, giỏi và nặng nề ngôn ngữ với những học sinh yếu kém .
+ Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối tượng; có những tiết giáo viên còn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức trọng tâm
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, tranh ảnh, SGK, thí nghiệm còn hạn chế, chưa khai thác hết tác dụng của ĐDDH.
- Chưa xử lý hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ chức các hoạt động còn mang tính hình thức chưa phù hợp.- Phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo nhóm dối tượng còn hạn chế.
- Chưa động viên tuyên dương kịp thời khi HS có một biểu hiện tích cực hay sáng tạo dù là rất nhỏ.
- Chưa quan tâm đến tất cả HS trong lớp, GV chỉ chú trọng vào các em HS khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.
- Nhiều khi thương HS mà chưa nghỉ tới hậu quả lâu dài các em phải gánh chịu khi – học lên lớp trên hoạc suốt cả cuộc đời.
- Còn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề chất lượng học tập của HS, còn tâm lí trông chờ chỉ đạo của cấp trên.
- Tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích, không đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy.
3. Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề:
Trong lớp học thường xuyên có 2 hoặc 3 em thường xuyên nghỉ học dẫn đến hỏng kiến thức, học yếu. Giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của từng học sinh: Yêu cầu người giáo viên nắm vững hoàn cảnh gia đình từng học sinh trong lớp mình, để kịp thời đến từng gia đình học sinh động viên, chia sẻ.
Ví dụ: Trong lớp có 2 đến 3 học sinh nghỉ học không có lý do thường xuyên nhưng các bạn cùng lớp thấy bạn cắp sách đi học mà lại không đến trường. Trong trường hợp này người giáo viên cần phải thông báo việc này với gia đình bằng cách gọi điện thoại hoặc gặp trực tiếp phụ huynh học sinh trao đổi, mặt khác giáo viên chủ nhiệm có thể gặp riêng học sinh đó để tìm hiểu lý do vì sao hôm đó em nghỉ học. Yêu cầu phải quan tâm đến các hoạt động, phong trào của lớp: Giáo viên chủ nhiệm cùng với tổ chức Đội tham gia tốt các phong trào thi đua của trường, lớp làm cho lớp sôi nổi, hào hứng tham gia như: phong trào thi đua “Giành nhiều bông hoa điểm 10”, phong trào “Đôi bạn cùng tiến”,... có tác dụng làm cho học sinh tự động viên nhắc nhở nhau trong học tập.
Công tác duy trì sĩ số học sinh và công tác chuyên cần của học sinh rất quan trọng trong quá trình giảng dạy và truyền thụ kiến thức mới cho học sinh.
Ví dụ: Trong quá trình giảng dạy truyền thụ phần kiến thức mới về “ Chia một số thập phân cho một số thập phân” ở lớp 5 cho học sinh. Chẳng hạn trong ngày hôm đó có 3 em khối 5 nghỉ học thì 3 em này chắc chắc không nắm được kiến thức đã học tiết trước dẫn đến từng mảng kiến thức đã hỏng. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh học yếu. Đối với trường hợp này giáo viên chủ nhiệm lớp phải có huyết tâm yêu nghề và có trách nhiệm với học sinh là động viên, an ủi các em đi học đều, dạy lại các mãng kiến thức đã hỏng để các em nắm lại kiến thức đã hỏng. Từ đó góp phần giảm tỉ lệ học sinh yếu, nâng cao chất lượng giáo dục.
Ví dụ: Trong lớp học có vài học sinh thường xuyên không thuộc bài và làm bài đầy đủ, lười biếng trong học tập. Trong trường hợp này công tác giáo dục, quản lý học sinh, để làm tốt được công tác này giáo viên chủ nhiệm cần phải thường xuyên trao đổi, gặp gỡ phụ huynh học sinh tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh và phối hợp cùng thống nhất cách giáo dục các em. Từ đó để các các em có ý thức trong học tập.
Ví dụ: Trong lớp còn tình trạng đọc chữ chưa lưu loát và sai từ ngữ. Đối với trường hợp này thì giáo viên tăng cường làm tốt công tác chủ nhiệm lớp nhất là 15 phút đầu giờ và cuối giờ học giáo viên rèn kỹ năng đọc cho học sinh như đọc lưu loát, đọc đúng, đọc nhanh, diễn cảm,...
Ví dụ: Học sinh hỏng kiến thức cơ bản, không thuộc bảng cửu chương thì giáo viên chủ nhiệm lớp dành thời gian tiết cuối dạy lại những kiến thức cơ bản mà học sinh đã hỏng và kèm học sinh yếu trong các giờ học toán. Đối với bảng cửu chương cho học sinh đọc và giáo viên phải kiểm tra.
Ví dụ: Đối với học sinh yếu về tập làm văn thì giáo viên chủ nhiệm lớp phải rèn kỹ năng làm văn cho học sinh như: Giáo viên cho học sinh viết một đoạn văn khoảng 5 câu rồi 7 câu,...nói về một chủ đề. Trong khi viết hướng dẫn học sinh dùng hình ảnh so sánh, nhân hóa, đại từ,....Để rèn kỹ năng làm văn cho học sinh thì giáo viên có thể làm mẫu một đoạn để hướng dẫn các em. Giáo viên phải kiểm tra nhận xét, đánh giá sự tiến bộ của học sinh.
Như vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên quan tâm đến học sinh yếu và có nhiều biện pháp giáo dục phụ đạo phù hợp nhằm đạt kết quả cao trong giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn trường. Chính vì vậy nghề giáo là một nghề cao quý, nhưng những người làm công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em đặc biệt còn cao quý biết nhường nào.
4. Giải pháp khắc phục vấn đề:
Trách nhiệm một giáo viên chủ nhiệm lớp, kiêm nhiệm Tổ trưởng khối 4&5 để thực hiện tốt nghị quyết năm học 2011 – 2012 của Trường Tiểu học Minh Thuận 5. Tôi đã vận dụng ngay kinh nghiệm phụ đạo học sinh yếu mà tôi đã đúc kết qua nhiều năm giảng dạy nhằm làm tốt phụ đạo học sinh yếu và nâng cao giáo dục toàn diện cho học sinh khối 4&5 như sau:đổi về tình hình sức khỏe và học tập rèn luyện của các em.
a. Thực hiện tốt 10 bước làm tốt công tác chủ nhiệm lớp
Bước 1: Nhận lớp, lập danh sách học sinh, điều tra độ tuổi của từng em, tìm hiểu hoàn cảnh của từng em để lập kế hoạch chủ nhiệm phù hợp trong suốt cả năm học.
Bước 2: Nhanh chóng ổn định chỗ ngồi cho học sinh, tạm thời bầu ra đội ngũ cán bộ lớp. Tiến hành học nội quy của trường, lớp cho học sinh. Lập thời khóa biểu cho học sinh tiện theo dõi các bài học trong ngày, trong tuần.
Bước 3: Họp phụ huynh lớp để cùng bàn bạc, trao đổi kế hoạch cũng như một số quy định về sách vở học tập cho học sinh. Lắng nghe nguyện vọng của phụ huynh để cùng kết hợp giáo dục học sinh cho tốt hơn.
Bước 4: Trong các buổi học luôn quán xuyến, theo dõi sự tiến bộ của học sinh qua các bài tập, bài viết. Động viên học sinh kịp thời bằng các điểm số kèm theo lời phê giúp học sinh hứng thú và nỗ lực học tập hơn. Tạo cho học sinh thói quen nghe “lệnh” (kí hiệu S,V,♫…, gõ thước, chỉ thước..) để tạo sự tập trung trong giờ học.
Bước 5: Cuối tuần có đánh giá, nhận xét kết quả thi đua học tập (Được dán công khai trên lớp). Học sinh được bình chọn, nhận xét những bạn đạt thành tích xuất sắc học tập trong tuần và cũng tự rút kinh nghiệm cho bản thân mình được hoàn thiện hơn. Đồng thời phát động thi đua học tập mới cho tuần tiếp theo.
Bước 6: Kết hợp với các đoàn thể trong trường để thực hiện đúng các chủ điểm, kế hoạch của: Chuyên môn; Công đoàn, Đoàn Đội, Tổ khối, …nhằm làm tốt công tác chủ nhiệm và thực hiện tốt các hoạt động trong nhà trường…phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp mình…Đặc biệt quan tâm đến công tác Sao nhi đồng hướng dẫn cho các em thực hiện đúng Lời hứa của nhi đồng. Rèn cho học sinh ý thức bảo vệ tài sản chung,giữ gìn vệ sinh chung.
Bước 7: Thường xuyên sinh hoạt 15 phút đầu giờ với học sinh, nhắc nhở đôn đốc học sinh tham gia tốt các buổi thể dục giữa giờ cũng như các buổi sinh hoạt ngoại khóa. Thay đổi chỗ ngồi cho học sinh 2lần/năm học. Thay đổi ban cán sự lớp để học sinh được thể hiện được khả năng của mình.
Bước 8: Luôn chú trọng rèn vở sạch chữ đẹp cho học sinh tham gia thi VSCĐ cấp trường, cấp huyện tổ chức. Kịp thời khen ngợi, động viên nếu học sinh làm được việc tốt hoặc có tiến bộ trong học tập.
Bước 9: Luôn nhắc nhở học sinh tham gia và thực hiện tốt an toàn giao thông qua các bài học sinh động Pokemon, Rùa và Thỏ…Lắng nghe những thắc mắc riêng tư cũng như những vướng mắc trong quan hệ
của học sinh để kịp thời tư vấn, chia sẻ với học sinh, tạo mối quan hệ gần gũi là người tin cậy của các em.
Bước 10: Trao đổi, nắm bắt các thông tin với phụ huynh bằng phiếu liên lạc và học sinh để báo cáo Lãnh đạo kịp thời những quyền lợi của học sinh.
Ngoài ra: Giáo viên chủ nhiệm còn có trách nhiệm nắm vững tình hình học sinh của lớp về mọi mặt, báo cáo cho Lãnh đạo biết theo định kỳ hoặc đột xuất nếu có vấn đề cần giải quyết. Kịp thời chỉ đạo, giải quyết kiểm tra, đánh giá công bằng, khách quan quá trình rèn luyện, phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện của từng học sinh trong lớp. Thường xuyên liên hệ với gia đình, cộng đồng các tổ chức trong và ngoài nhà trường để cùng phối hợp giáo dục, động viên giúp đỡ từng học sinh nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phát triển trí tuệ, năng lực.
b. Xác định đối tượng:
Dựa vào định nghĩa đã nêu giáo viên dựa vào kết quả khảo sát lựa chọn chính xác đối tượng: Cần chú ý có hai loại đối tượng là: Đối tượng mở rộng và đối tượng tập trung.
* Đối tượng mở rộng: là đối tượng thuộc dạng học yếu trong một giai đoạn, một khoảng thời gian nhất định với sự giúp đỡ kịp thời của giáo viên những học sinh này có khả năng tự thoát khỏi dạng học yếu trong một khoảng thời ngắn.
* Đối tượng tập trung (đối tượng chính): là những học sinh yếu thật sự không có khả năng theo kịp kiến thức của bài học, hoặc bị hạn chế ở một hay nhiều kĩ năng cơ bản không có khả năng tự thực hiện yêu cầu của bài học. Số học sinh thuộc đối tượng này phải được giáo viên quan tâm giúp đỡ trong thời gian dài và xuyên suốt trong quá trình dạy học mới có thể hòa nhập được cùng các bạn. Nói cụ thể hơn là giáo viên cần xác định kỹ hơn học sinh mình bị yếu ở điểm nào. Đây là bước hết sức quan trọng để tiến hành các bước tiếp theo.
c. Tìm hiểu nguyên nhân: Từ việc đã xác định được đối tượng giáo viên phải tiến hành điều tra và xác định được nguyên nhân nào dẫn đến việc học yếu. Qua việc tìm hiểu, điều tra, kiểm tra, quan sát, đi thực tế…. Chúng ta phải xác định rõ nguyên nhân dẫn đến học yếu của từng em. Đây là bước quan trọng để có thể lựa chọn đúng giải pháp giúp các em học tiến bộ hơn. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến việc học sinh học yếu:
- Do trí tuệ kém phát triển.
- Do lơ là trong học tập.
- Do bị hỏng một số kiến thức, kĩ năng cơ bản.
- Do ham chơi, lười học.
- Do phương pháp của giáo viên chưa phù hợp, lời giảng chưa thu hút.
- Do gia đình thiếu quan tâm, hoàn cảnh gia đình quá khó khăn phải phụ làm thêm với cha mẹ không có thời gian học ở nhà.
- Do ảnh hưởng tâm lý.
- Do ảnh hưởng từ bạn bè.
- Do bị nghiện game, hoặc có một số sở thích khác….
Việc xác định nguyên nhân là cả một quá trình vô cùng khó khăn và phức tạp nhưng đó chính là điều kiện không thể thiếu để lựa chọn giải pháp giáo dục phù hợp cho từng đối tượng mà chúng ta đã tìm được nguyên nhân.
d. Các giải pháp ứng dụng giáo dục phụ đạo học sinh yếu
Đối với Học sinh
- Đi học phải chuyên cần, nghỉ học phải có lý do chính đáng.
- Học bài, làm bài, chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Trong giờ học tập trung nghe cô giáo giảng bài, tích cực tham gia xây dựng bài.
Đối với phụ huynh
- Theo dõi và kiểm tra bài vở của con em mình.
- Giúp đỡ HS trong quá trình học tập ở nhà, phải có thời gian biểu cho học sinh. Đôn đốc, động viên con em đi học chuyên cần.
- Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con em trước khi đến trường.
- Thường xuyên liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp để nắm được tình hình học tập của con em mình, từ đó giáo viên chủ nhiệm cùng trao đổi với phụ huynh để tìm biện pháp tốt nhất cho con em mình học tập.
- Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng và giáo dục con người tốt nhất. Chính vì vậy giáo viên phải thường xuyên liên hệ gia đình, gặp riêng phụ huynh những học sinh yếu để cùng thảo luận giải pháp giúp các em học tập tốt hơn. Cụ thể nên hướng dẫn cha mẹ học sinh cách dạy và nội dung dạy phù hợp; phụ huynh biết quản lí thời gian học ở nhà của các em bằng thời gian biểu hằng ngày; quản lí giờ chơi, yêu cầu gia đình tạo mọi điều kiện cho các em tham gia học tập tích cực và tự học; gia đình phải kịp thời động viên, đôn đốc con em đi học chuyên cần. Có sự kiểm tra và chuẩn bị cho con trước khi đến trường.
Kết hợp với các lực lượng giáo dục khác:
- Trong nhà trường: giáo viên phải thường xuyên liên hệ và báo cáo với BGH để theo dõi và chỉ đạo kịp thời, trao đổi cùng tổ chuyên môn, đồng thời phải phối hợp tốt với các tổ chức đoàn thể khác như Đội, Đoàn, Công đoàn… để cùng nhau tìm ra biện pháp giáo dục các em.
- Các lực lượng xã hội khác: Thường xuyên liên hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể, các tổ chức từ thiện xã hội kịp thời giúp đỡ HS có hoàn cảnh khó khăn, động viên các em an tâm học tập, tránh trường hợp bỏ học do học yếu và gia cảnh quá khó khăn.
Đối với giáo viên
-Họp phụ huynh học sinh dầu năm nêu rõ thuận lợi, khó khăn của lớp, thông báo cụ thể kết quả học tập của các em để phụ huynh nắm được. Bàn bạc cách kèm cặp ở nhà cũng như ở lớp.
-Giúp phụ huynh và học sinh nhận thức rõ vai trò của việc học tập của học sinh.
-Thông tin, tuyên truyền cho học sinh và phụ huynh hiểu về tinh thần cuộc vận động “Hai không” từ đó có biện pháp phối kết hợp để giáo dục học sinh.
-Thường xuyên theo dõi, kiểm tra và nhắc nhở cho học sinh, giúp các em có thói quen tự học, tự rèn luyện ở nhà cũng như ở trường.
-Xây dựng tốt phong trào “ Đôi bạn cùng tiến”, phân công bạn khá giỏi kèm cặp, giúp đỡ.
-Phân loại mức độ yếu của học sinh để có nội dung phụ đạo kịp thời và hợp lí.
-Tăng cường nâng cao nhận thức cho phụ huynh và học sinh.
-Động viên, giúp đỡ các em trong từng tiết học để tạo phấn chấn trong học tập cho các em, tạo cho các em ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân trong học tập, nâng cao năng lực cá nhân.
-Lập kế hoạch theo tuần ( Có sự thống nhất của tổ chuyên môn).
-Chấm, chữa bài cho học sinh thường xuyên, chỉ rõ sự tiến bộ hoặc chưa tiến bộ để học sinh có hướng phấn đấu, rèn luyện.
-Động viên, tuyên dương kịp thời những tiến bộ của học sinh giúp học sinh có thêm động cơ học tập.
-Đánh giá, xếp loại học sinh thông qua kết quả học tập thường xuyên và kết quả kiểm tra chất lượng (đối với học sinh yếu) hàng tháng phải có nhận xét đánh giá cụ thể,...
-Giáo viên là người chủ đạo trong việc khắc phục học sinh yếu, thành hay bại là phần lớn do giáo viên. Vì vậy giáo viên là người hết sức quan trọng trong việc khắc phục học sinh yếu. Giáo viên được ví như một người huấn luyện viên trưởng. Vì vậy giáo viên cần lưu ý một số biện pháp sau :
- Lập danh sách học sinh yếu báo cáo cho Tổ khối hàng tháng để ghi nhận sự tiến bộ của học sinh theo mẫu quy định
- Phân tích nguyên nhân từ đâu? Để từ đó có biện pháp khác phục hợp lý và có hiệu quả.- Đề xuất với Tổ khối, nhà trường về cách khắc phục để tất cả cùng tập trung giải quyết có hiệu quả tốt nhất.
- Chủ động gặp phụ huynh trao đổi về việc học tập của học sinh, cùng với phụ huynh tìm biện pháp khắc phục.
- Tiếp theo giáo viên lập kế hoạch phụ đạo học sinh yếu ngoài giờ học chính khóa có thể ở trường, ở nhà (đề xuất với Tổ khối, nhà trường, phụ huynh...
- Trong tiết dạy học bình thường giáo viên soạn bài nhất thiết phải có kế hoạch dạy học cho những học sinh yếu. Kế hoạch dạy học cho học sinh yếu phải phù hợp với trình độ học sinh đó, không nên dạy những
+ Tập đọc: Dù là học sinh lớp 5, nhưng trong khối còn một số em đọc rất yếu. Nguyên nhân đọc yếu ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu, chưa đạt được tốc độ đọc của học sinh lớp 5, với những từ có vần khó thì phải đánh vần thật lâu, tùy tiện lượt bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả năng đọc trôi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản còn hạn chế. Đối với những học sinh đọc yếu thì giáo viên cần: Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần. Nếu thời gian của tiết học không đủ thì giáo viên có thể tranh thủ cho các em luyện đọc thêm vào 15 phút đầu giờ, giờ giải lao 5 hoặc 10 phút và cuối tiết học khoảng 15 phút.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần giáo viên có thể đến nhà gặp phụ huynh học sinh để xem cách học ở nhà của các em như thế nào,
nếu thấy cần thiết thì giáo viên đưa ra biện pháp giúp đỡ. Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét, đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc. Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện đọc trôi chảy thông qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
+ Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do phát âm chưa đúng nên dẫn đến.
Đối với những học sinh viết yếu thì giáo viên cần: Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc
cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Chúng ta có thể cho các em viết vào giờ ra chơi hoặc về nhà viết. Các em sẽ có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét đánh giá kịp thời. Nếu có điều kiện thì yêu cầu các em đến nhà của giáo viên để luyện viết thì các em sẽ tiến bộ nhanh hơn. Chỉ cần các em nắm hết các âm, vần thì dần dần các em sẽ viết đúng chính tả.
Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm. Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng chính tả.
+ Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu. Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày. Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm giúp các em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu.
+ Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học thông qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn .Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn. Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. Học sinh tự viết lại. Cần tạo điều kiện để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp. Ví dụ: Với đề bài: Tả cơn mưa ( Sách Tiếng Việt lớp 5 – tập 1 )
Giáo viên có thể chuyển thành tình huống: Trường em tổ chức “ Lễ hội trăng rằm”, tất cả đã sẵn sàng nhưng cơn mưa chợt đến. Em hãy tả lại cơn mưa đó. Giáo viên có thể gợi mở thành nhiều tình huống khác nhau nhằm gây hứng thú, cảm xúc, sự quan tâm ở các em để giúp các em hình dung ra điều mình sẽ tả.
+ Môn toán: Không nắm được các phép tính cộng, trừ có nhớ, không thuộc bảng nhân, bảng chia. Vì vậy, các em cũng không nắm được các phép tính cộng, trừ, nhân, chia phân số. Không nắm được lí thuyết bài (công thức, quy tắt). Không nắm được cấu tạo số tự nhiên (hàng, lớp, cách đặt tính)… Từ chỗ không nắm được cấu tạo số tự nhiên nên các em cũng không nắm được cấu tạo số thập phân. Mà đối với học sinh lớp 5, các em phải làm rất nhiều bài tập về số thập phân.
Vậy, đối với những học sinh không biết tính thì giáo viên cần: Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em không thuộc bảng nhân, chia thì giáo viên gọi lên kiể