Bài giảng Bài 4- Tiết 4 Thuyết minh về một thể loại văn học

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Đã khách không nhà trong bốn biển,

Lại người có tội giữa năm châu.

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,

Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp,

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

 

ppt17 trang | Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Bài 4- Tiết 4 Thuyết minh về một thể loại văn học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 4- Tiết 4 Tập làm văn “ Thuyết minh đặc điểm thể thơ thất ngôn bát cú” Đề bài: Em hãy nêu yêu cầu của đề bài? Văn bản Vào nhà ngục Quảng đông cảm tác Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Đã khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. Phan Bội Châu trong Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX, NXB Văn học, Hà Nội 1976 Văn bản Vào nhà ngục Quảng đông cảm tác Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Đã khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. B T B T B T T B T B T B B T B T B T T B T B T B Văn bản Vào nhà ngục Quảng đông cảm tác Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Đã khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. u ù u ù u Văn bản Vào nhà ngục Quảng đông cảm tác Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu, Chạy mỏi chân thì hãy ở tù. Đã khách không nhà trong bốn biển, Lại người có tội giữa năm châu. Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế, Mở miệng cười tan cuộc oán thù. Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp, Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu. / / / / / / / / / / Đặc điểm thể thơ thất ngôn bát cú Mỗi bài thơ: 8 dòng Mỗi dòng thơ: 7 tiếng Về luật: tiếng thứ 2 – 4 – 6 trên một dòng thơ phải đối nhau Về niêm ở các dòng thơ: 1 – 8; 2 – 3; 4 – 5; 6 - 7 Đối thanh và đối ý ở dòng thơ 3 -4; 5 -6 Gieo vần ở tiếng thứ 7 của các dòng thơ 1, 2, 4, 6, 8; vần bằng - Ngắt nhịp: 2/ 2/ 3; 4 /3 Muốn tìm hiểu được đặc điểm một thể loại văn học (thể thơ hay văn bản cụ thể), trước hết phải quan sát, nhận xét, sau đó khái quát thành những đặc điểm. Muốn thuyết minh được đặc điểm một thể loại văn học chúng ta phải là gì? Lập dàn bài Mở bài: Nêu định nghĩa chung về thể thơ thất ngôn bát cú. Thân bài: Nêu đặc điểm của thể thơ: + Số câu, số chữ trong bài. + Quy luật bằng trắc của thể thơ. + Về niêm, luật, đối. + Cách gieo vần của thể thơ. + Cách ngắt nhịp phổ biến của mỗi dòng thơ Lấy dẫn chứng từ văn bản để làm sáng tỏ các đặc điểm. Kết bài: Cảm nhận của em về vẻ đẹp, nhạc điệu của thể thơ Khi nêu các đặc điểm cần lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu, quan trọng và cần có những ví dụ cụ thể để làm sáng tỏ các đặc điểm ấy Qua việc xây dựng dàn ý và tập viết bài văn em đã rút ra kinh nghiệp gì khi nêu các đặc điểm một thể loại văn học? Ghi Nhớ Muốn tìm hiểu được đặc điểm một thể loại văn học (thể thơ hay văn bản cụ thể), trước hết phải quan sát, nhận xét, sau đó khái quát thành những đặc điểm. Khi nêu các đặc điểm cần lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu, quan trọng và cần có những ví dụ cụ thể để làm sáng tỏ các đặc điểm ấy Luyện tập Hãy thuyết minh đặc điểm chính của truyện ngắn trên cơ sở các truyện ngắn đã học: Tôi đi học, Lão Hạc, Chiếc lá cuối cùng. 2. Đọc tài liệu tham khảo sau để tìm thấy những gợi ý cần thiết cho việc lập dàn bài và viết bài. Truyện ngắn Truyện ngắn là hình thức tự sự loại nhỏ. Truyện ngắn khác với truyện vừa ở dung lượng nhỏ, tập trung mô tả một mảnh của cuộc sống: một biến cố, một hành động, một trạng thái nào đó trong cuộc đời nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hay một mặt nào đó của đời sống xã hội. Do đó truyện ngắn thường ít nhân vật và sự kiện. Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian hạn chế. Nó không kể trọn vẹn một quá trình diễn biến một đời người mà chọn lấy những khoảnh khắc, những “lát cắt” của cuộc sống để thể hiện. Kết cấu của truyện ngắn thường là sự sắp đặt những đối chiếu, tương phản để làm bật ra chủ đề. Do đó, mà truyện ngắn thường là ngắn. Truyện ngắn tuy ngắn nhưng có thể đề cập tới những vấn đề lớn của cuộc đời. Tác phẩm của nhiều bậc thầy trong thể loại này đã cho ta biết điều đó. (Theo Từ điển văn học) Lập dàn bài Mở bài: Nêu định nghĩa truyện ngắn là gì Giới thiệu tác phẩm, tác giả của truyện ngắn Thân bài: Nêu đặc điểm nổi bật của truyện ngắn: + Đặc điểm về nội dung: nhân vật và các sự việc + Đặc điểm về nghệ thuật: miêu tả, tự sự, biểu cảm Lấy dẫn chứng minh hoạ cho các đặc điểm của truyện ngắn Kết bài: Tác dụng của tác phẩm đối với cuộc sống. Văn bản đọc thêm Hát nói Một điệu hát ca trù (tức hát ả đảo, hát cô đầu) có nhạc kèm theo và có một hình thức thơ riêng được gọi là thể thơ hát nói. Đây là thể thơ trụ cột của hát ca trù, đặc biệt thịnh hành vào thế kỷ XIX. Xét về mặt văn học, hát nói là một thể thơ cách luật. Bố cục một bài hát nói đầy đủ gồm 11 câu chia làm 3 khổ. Các khổ và câu trong bài hát nói thường được gọi theo tiếng chuyên môn của nhà trò như sau: - Khổ đầu: 4 câu, gồm 2 câu “ lá đầu” và 2 câu “ xuyên thưa”. - Khổ giữa: 4 câu, gồm 2 câu “ thơ” (ngũ ngôn hoặc thất ngôn) và 2 câu “xuyên sau”. - Khổ xếp: 3 câu gọi là câu “dồn”, câu “xếp” và câu “keo”. Ngoài 3 phần chính, mỗi bài hát nói thường có thêm phần “ mưỡu” ( do chữ mạo nghĩa là trùm, phủ lên mình) là những câu thơ lục bát đặt ở đầu bài ( gọi là mưỡu đầu), hoặc cuối bài (gọi là mưỡu hậu) để nêu lên ý nghĩa bao quát toàn bài. Nếu chỉ có 2 câu lục bát gọi là “mưỡu kép”. Một bài hát nói biến cách thì số khổ giữa có thể tăng (dôi khổ) hoặc giảm (thiếu khổ). Về số tiếng trong câu vừa cố định vừa tự do. Phần cố đinh bắt buộc 2 câu là khổ giữa ( phải là ngũ ngôn hay thất ngôn), các câu mưỡu (phải là thơ lục bát) và câu cuối (phải dùng 6 tiếng). Còn các câu khác có thể kéo dài hoặc rút ngắn. Việc reo vần ngát nhịp trong thể cũng tương đỗi tự do. Sang thế kỷ XX, các nhà thơ hiện đại Việt Nam đã tiếp thu nhiều yêu tố của biến thể hát nói để sáng tạo ra thể thơ 8 tiếng – một thể thơ rất thịnh hành trong phong trào Thơ mới. (Nguyễn Khắc Phi – Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2004)

File đính kèm:

  • pptThiet minh ve 1 the loai van hoa.ppt
Giáo án liên quan