Tuyển tập một số bài văn hay lớp 9

“Phong cách Hồ Chí Minh” rút trong bài “Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại

gắn với cái giản dị” của Lê Anh Trà in trong cuốn sách “Hồ Chí Minh vàvăn hoá Việt

Nam” – năm 1990.

Luận điểm thứ nhất mà ng-ời viết nêu lên là tầm sâu rộng vốn tri thức văn hóa của

Hồ Chí Minh. Do đâu mà có vốn tri thức văn hóa ấy ?Hồ Chí Minh có một cuộc sống

phong phú, sôi nổi. Ng-ời “đ tiếp xúc” với văn hoá nhiều n-ớc ở ph-ơng Đong và

ph-ơng Tây. Ng-ời “đ ghé lại” nhiều hải cảng, “đ thăm” các n-ớc châu Phi, châu á,

châu mĩ. Ng-ời “đ sống dài ngày” ở Anh, ở Pháp. Lúc làm bồi, lúc cuốc tuyết, lúc làm

nghề rửa ảnh.Chế Lan Viên cũng đG có lần viết:

“Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể,

Ng-ời đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Phi

Những đất tự do, những trời nô lệ

Những con đ-ờng cách mạng đang tìm đi”.

( “Ng-ời đi tìm hình của n-ớc”)

Ng-ời “nói và viết thạo” nhiều ngoại ngữ nh- Pháp, Anh, Hoa, Nga.Cuộc đời

Ng-ời “đầy truân chuyên ”.Ng-ời “đ làm nhiều nghề”,và đặc biệt là “đến đâu Ng-ời

cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm”. Hồ Chí Minh

“đ tiếp thu” mọi cái hay cái đẹp của các nền văn hóa, và “đ nhào nặn” với cái gốc văn

hóa dân tộc đẫ thấm sâu vào hồn mình, máu thịt mình, nên đG trở thành “một nhân cách

rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất ph-ơng Đông, nh-ng cũng đồng

thời rất mới, rất hiện đại:.Cách lập luận chặt chẽ, cách nêu luận cứ xác đáng,lối diễn

đạt tinh tế của Lê Anh Trà đG tạo nên sức thuyết phục lớn.

Luận điểm thứ hai mà tác giả đ-a ra là lối sống rất bình dị, rất ph-ơng Đông, rất

Việt Nam của Hồ Chí Minh. Lê Anh Trà đG sử dụng ba luận cứ (nơi ở, trang phục, cách

ăn mặc) để giải thích và chứng minh cho luận điểm này. Cái “cung điện” của vị Chủ tịch

n-ớc là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng

“tiếp khách, họp Bộ chính trị, làm việc và ngủ”, đồ đạc “rất mộc mạc, đơn sơ”. Trang

phục của Ng-ời “hết sức giản dị” với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp

“ thô sơ nh- của các chiến sĩ tr-ờng Sơn”. Cách ăn uống của Hồ Chí Minh “rất đạm

bạc”: cá kho, rau luộc, d- ghém, cà muối, cháo hoa., đó là “những món ăn dân tộc

không chút cầu kì”. Những luận cứ mà ng-ời viết nêu ra không có gì mới. Nhiều ng-ời

đG nói, đG viết, nhiều hồi kí đG để lại mà ta đG biết. Nh-ng Lê Anh Trà đG viết một cách

giản dị, thân mật, trân trọng và ca ngợi

pdf46 trang | Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1259 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tuyển tập một số bài văn hay lớp 9, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
– Thư viện Sỏch Tham Khảo 1 Tuyển tập một số bài văn hay lớp 9 Đề 1: Phân tích và nêu cảm nghĩ của em sau khi học bài “Phong cỏch Hồ Chớ Minh” của Lê Anh Trà. “Phong cách Hồ Chí Minh” rút trong bài “Phong cách Hồ Chí Minh, cái vĩ đại gắn với cái giản dị” của Lê Anh Trà in trong cuốn sách “Hồ Chí Minh và văn hoá Việt Nam” – năm 1990. Luận điểm thứ nhất mà ng−ời viết nêu lên là tầm sâu rộng vốn tri thức văn hóa của Hồ Chí Minh. Do đâu mà có vốn tri thức văn hóa ấy ? Hồ Chí Minh có một cuộc sống phong phú, sôi nổi. Ng−ời “đ tiếp xúc” với văn hoá nhiều n−ớc ở ph−ơng Đong và ph−ơng Tây. Ng−ời “đ ghé lại” nhiều hải cảng, “đ thăm” các n−ớc châu Phi, châu á, châu mĩ. Ng−ời “đ sống dài ngày” ở Anh, ở Pháp. Lúc làm bồi, lúc cuốc tuyết, lúc làm nghề rửa ảnh.....Chế Lan Viên cũng đG có lần viết: “Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể, Ng−ời đi hỏi khắp bóng cờ châu Mĩ, châu Phi Những đất tự do, những trời nô lệ Những con đ−ờng cách mạng đang tìm đi”. ( “Ng−ời đi tìm hình của n−ớc” ) Ng−ời “nói và viết thạo ” nhiều ngoại ngữ nh− Pháp, Anh, Hoa, Nga....Cuộc đời Ng−ời “đầy truân chuyên ”. Ng−ời “đ làm nhiều nghề”, và đặc biệt là “đến đâu Ng−ời cũng học hỏi, tìm hiểu văn hóa, nghệ thuật đến một mức khá uyên thâm”. Hồ Chí Minh “đ tiếp thu” mọi cái hay cái đẹp của các nền văn hóa, và “đ nhào nặn” với cái gốc văn hóa dân tộc đẫ thấm sâu vào hồn mình, máu thịt mình, nên đG trở thành “một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất ph−ơng Đông, nh−ng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại:. Cách lập luận chặt chẽ, cách nêu luận cứ xác đáng, lối diễn đạt tinh tế của Lê Anh Trà đG tạo nên sức thuyết phục lớn. Luận điểm thứ hai mà tác giả đ−a ra là lối sống rất bình dị, rất ph−ơng Đông, rất Việt Nam của Hồ Chí Minh. Lê Anh Trà đG sử dụng ba luận cứ (nơi ở, trang phục, cách ăn mặc) để giải thích và chứng minh cho luận điểm này. Cái “cung điện” của vị Chủ tịch n−ớc là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng “tiếp khách, họp Bộ chính trị, làm việc và ngủ”, đồ đạc “rất mộc mạc, đơn sơ”. Trang phục của Ng−ời “hết sức giản dị” với bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp “ thô sơ nh− của các chiến sĩ tr−ờng Sơn”. Cách ăn uống của Hồ Chí Minh “rất đạm bạc”: cá kho, rau luộc, d− ghém, cà muối, cháo hoa..., đó là “những món ăn dân tộc không chút cầu kì”. Những luận cứ mà ng−ời viết nêu ra không có gì mới. Nhiều ng−ời đG nói, đG viết, nhiều hồi kí đG để lại mà ta đG biết. Nh−ng Lê Anh Trà đG viết một cách giản dị, thân mật, trân trọng và ca ngợi. Phần còn lại, tác giả đG bình luận phong cách Hồ Chí Minh. So sánh với cuộc sống của một vị lGnh tụ, một vị tổng thống, một vị vua hiền..., rồi ông ngạc nhiên khẳng định – Thư viện Sỏch Tham Khảo 2 Hồ Chí Minh đG “sống đến mức giản dị và tiết chế nh− vậy” :. Lê Anh Trà “bất giác nghĩ đến”, liên t−ởng đến Nguyễn TrGi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, trích dẫn hai câu thơ của Trạng Trình: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá - Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” để đi tới ca ngợi nếp sống giản dị và thanh đạm của Hồ Chí Minh, của các vị danh nho không phải là “tự thần thánh hóa, tự làm cho khác đời”, mà là “lối sống thanh cao, mnột cách di d−ỡng tinh thần, một quan niệm thẩm mĩ về cuộc sống, có khả năng đem lại hạnh phúc, thanh cao cho tâm hồn và thể xác”. Tóm lại, Lê Anh Trà đG lập luận một cách chặt chẽ, nêu lên những luận cứ xác thực, chọn lọc, trình bày khúc chiết với tất cả tấm lòng ng−ỡng mộ, ngợi ca “Nhà văn hóa lớn, nhà đạo đức lớn, nhà cách mạng lớn, nhà chính trị lớn đ quyện chặt với nhau trong con ng−ời Hồ Chí Minh, một con ng−ời rất giản dị, một con ng−ời Việt Nam gần gũi với mọi ng−ời”. Đọc bài viết của Lê Anh Trà, chúng ta học tập đ−ợc bao nhiêu điều tốt đẹp về phong cách Hồ Chí Minh, vị lGnh tụ kính yêu của dân tộc. -------------------------------------------- ðề 2. Em hóy Phõn tớch bài thơ “Viếng lăng Bỏc” của Viễn Phương Chủ tịch Hồ Chớ Minh - vị cha già kớnh yờu của dõn tộc Việt Nam – ủó cống hiến trọn ủời mỡnh vỡ sự nghiệp giải phúng ủất nước. Người ra ủi năm 1969, ủể lại biết bao nỗi thương nhớ và xút xa cho Tổ quốc. Cú nhiều nhà thơ ủó viết bài thơ tưởng nhớ về Bỏc, và “Viếng lăng Bỏc” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chỳng ta hóy cựng ủến với bài thơ ủể cảm nhận ủược cảm xỳc ấy. “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bỏc .... Muốn làm cõy tre trung hiếu chốn này” Năm 1976, sau ngày ủất nước ta ủược hoàn toàn giải phúng, lăng Bỏc ủược khỏnh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam ủó ra thăm lăng Bỏc. Cảm xỳc dõng trào, nhà thơ ủó làm một bài thơ như một lời bộc bạch chõn tỡnh của hàng triệu người con miền Nam với Bỏc. ðõy là một bài thơ ủặc sắc, giàu ý nghĩa, làm cho người ủọc xỳc ủộng. Hai khổ thơ ủầu là những dũng cảm xỳc ban ủầu của nhà thơ khi ủược lần ủầu ủến thăm lăng Bỏc: một chỳt tự hào, xen lẫn vui sướng, lẫn xỳc ủộng khi sắp ủc kề cận bờn Ng` cha thõn yờu của dõn tộc.Bằng những hỡnh ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, nhụn ngữ bỡnh dị mà hàm sỳc, tinh tế, ủoạn thơ ủó ủể lại trong lũng người ủọc những cảm xỳc vụ cựng sõu sắc. Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, rộo rắt như tấm lũng tha thiết yờu mến của nhà thơ với Bỏc. Bằng những ngụn từ ẩn dụ ủặc sắc,từ ngữ bỡnh dị mà giàu sức gợi, cõu thơ ủó khơi gợi trong lũng người ủọc những rung ủộng sõu sắc và ủỏng quý. Bài thơ ủược phõn chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ ủầu tiờn núi về cảm xỳc của tỏc giả khi nhỡn thấy lăng Bỏc từ xa. – Thư viện Sỏch Tham Khảo 3 “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bỏc” Cõu thơ ủầu tiờn thật ngắn gọn nhưng nú lại là một lời tõm sự chõn tỡnh của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng “con” thật ấm ỏp, gần gũi, thể hiện lũng kớnh yờu to lớn ủối với Bỏc. Bỏc thật gần gũi với người dõn, như là một vị cha già của dõn tộc. “Con ở miền Nam” - mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi ủau và một niềm tự hào. Miền Nam gian khổ và anh hựng, miền Nam ủi trước về sau, miền Nam thành ủồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thự hung bạo trở về trong ủại gia ủỡnh Việt Nam ủõy Bỏc ơi! Nhà thơ mong nhỡn thấy Bỏc một lần sau khi ủất nước ủó giải phúng nhưng thật ủau xút, Bỏc ủó khụng cũn. Vỡ vậy, từ “viếng” ủó ủược nhà thơ thay bằng từ “thăm” ủể giảm nhẹ nỗi ủau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bỏc vẫn sống mói. “ðó thấy trong sương hàng tre bỏt ngỏt ễi hàng tre xanh xanh Việt Nam Bóo tỏp mưa sa ủứng thẳng hàng” ðập vào mắt nhà thơ là hỡnh ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bỏc. Cõy tre - biểu tượng cho sự bất khuất, kiờn cường nhưng giản dị, thanh cao của người dõn Việt Nam – ủó ủể lại một dấu ấn ủậm nột trong lũng tỏc giả trước khi bước vào lăng Bỏc. Hàng tre bỏt ngỏt – Hàng tre xanh xanh – Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao ủời như một dấu hịờu ủặc biệt của dõn tộc. Hàng tre trựm búng mỏt rượi lờn bao thế hệ cuộc ủời, hàng tre mang bao phẩm chất của con người Tổ quốc ta: dẻo dai, ủoàn kết, bất khuất, kiờn cường. Ở Bỏc cú tất cả những gỡ mà những con người Việt Nam từng cú, cũng cỏi dấu hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cỏi kiờn cường “ủứng thẳng hàng” trong “bóo tỏp mưa sa” ấy. Dõn tộc ta thật sự cú sức sống mónh liệt, cho dự những thử thỏch của thiờn nhiờn, của lịch sử cú khắc nghiệt cỏch mấy thỡ vẫn kiờn cường chống chọi, và vẫn cố gắng ủứng thẳng chứ nhất quyết khụng chịu bị bẻ cong. Hàng tre ủứng ủú, bờn lăng Bỏc như ru giấc ngủ ngàn thu của Bỏc, gắn bú mói mói với Bỏc như dõn tộc Việt Nam vẫn kớnh trọng Bỏc mói mói. ðến gần lăng Bỏc, xếp hàng vào viếng thỡ tỏc giả cú thờm nhiều cảm xỳc mới. “Ngày ngày mặt trời ủi qua trờn lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất ủỏ” Hai cõu thơ sinh ủộng với nhiều hỡnh ảnh gợi cảm ủược tạo nờn từ những hỡnh ảnh thực và hỡnh ảnh ẩn dụ súng ủụi với nhau. Một mặt trời thực ủi qua trờn lăng, là mặt trời của tự nhiờn, của muụn loài, soi sỏng cho muụn loài, ủem lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một mặt trời ẩn dụ khỏc hiện ra trong lăng, rất ủỏ. Bỏc nằm trong lăng với ỏnh sỏng ủỏ xung quanh như một mặt trời. Bỏc tồn tại vĩnh cửu trong lũng mỗi người dõn Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thật. Bỏc soi sỏng ủường cho dõn tộc ta ủi, cống hiến cả cuộc ủời cho sự nghiệp giành ủộc lập của Tổ quốc. Bỏc giỳp nhõn dõn ta thoỏt khỏi kiếp sống nụ lệ, trở thành một con người tự do ủể bõy giờ ủược hạnh phỳc. Cụng lao của Bỏc ủối với dõn tộc ta cũng như mặt trời, to lớn khụng kể xiết. Bỏc là một mặt trời. Cỏi ẩn dụ mặt trời ở ủõy khụng biết ủó ủủ núi về Bỏc chưa ?. Khụng, nếu núi Bỏc là mặt trời thỡ phải nhấn mạnh thờm cho rừ cỏi ủặc tớnh của vầng mặt trời ấy: rất ủỏ. Cỏi mặt trời ủang tỏa sỏng trờn cao kia, cỏi mặt trời của thiờn nhiờn, tượng trưng của nguồn núng, nguồn sỏng, nguồn sự sống ấy, khụng phải bao giờ cũng nguyờn – Thư viện Sỏch Tham Khảo 4 vẹn thế ủõu, khụng phải lỳc nào cũng ấm núng thế ủõu! Vầng mặt trời ấy cú thể bị búng ủờm lấn ỏt. Nhưng vầng mặt trời Bỏc Hồ của ta thỡ mói mói ủỏ thắm, mói mói là nguồn sưởi ấm, nguồn sỏng soi ủường cho con người Việt Nam. Hụm nay cú hai mặt trời chiếu rọi trờn ủường ủời: một mặt trời tỏa sỏng trước mặt, một mặt trời tỏa sỏng tõm hồn…Như mặt trời kia, Bỏc thuộc về vĩnh cửu. Bỏc sẽ sống mói trong lũng mỗi con người Việt Nam. “Ngày ngày dũng người ủi trong thương nhớ Kết tràng hoa dõng bảy mươi chớn mựa xuõn…” Cựng với mặt trời ủi qua trờn lăng, ngày ngày dũng người vẫn ủi qua lăng trong thương nhớ. ðiệp ngữ “ngày ngày” ý núi rằng nhõn dõn ta mói luụn ghi nhớ cụng lao to lớn của Bỏc, mói mói là như vậy. Nhịp thơ của ủoạn chậm, diễn tả ủỳng tõm trạng khi ủứng xếp hàng trước lăng chờ ủến lượt vào, ngậm ngựi tưởng nhớ ủến Bỏc ủó khuất. Tuy vậy, nhịp thơ chầm chậm như bước chõn người ủi trong cuộc tưởng niệm mà sao cõu thơ vẫn khụng buồn ? Phải rồi. Chỳng ta khụng làm cỏi việc tưởng niệm bỡnh thường với Bỏc như một người ủó khuất. Dũng người ủang ủi ủõy là ủang ủi trong cuộc hành trỡnh ngợi ca vinh quang của Bỏc. Và tràng hoa vinh quang này khụng phải ủược kết bằng những bụng hoa bỡnh thường như mọi tràng hoa vinh hiển khỏc trờn ủời ủõu. Tràng hoa ủõy là một hỡnh ảnh ẩn dụ của tỏc giả, ủú chớnh là những ủoỏ hoa thật sự của ủời, là ủàn con mà Bỏc ủó cố cụng tạo nờn suốt bảy mươi chớn mựa xuõn Bỏc sống trờn ủời. Những bụng hoa trong vườn Bỏc nay ủó lớn lờn, nở rộ ngỏt hương kớnh dõng lờn Bỏc. Vào bờn trong lăng Bỏc, thấy Bỏc ủang nằm ủú, nhà thơ lại một lần nữa cố giấu tiếng nấc nghẹn ngào: “Bỏc nằm trong giấc ngủ bỡnh yờn Giữa một vầng trăng sỏng dịu hiền” Khung cảnh bờn trong lăng thật ờm dịu, thanh bỡnh. Lỳc này, trước mặt mọi người chỉ cú hỡnh ảnh Bỏc. Bỏc nằm ủú trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bỏc mất thật rồi sao? Khụng ủõu. Bỏc chỉ nằm ủú ngủ thụi, Bỏc chỉ ngủ thụi mà! Suốt bảy mươi chớn năm cống hiến cho ủất nước, bõy giờ ủất nước ủó bỡnh yờn, Bỏc phải ủược nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bỏc là một “vầng trăng sỏng dịu hiền”. ðú là hỡnh ảnh ẩn dụ cho những năm thỏng làm việc của Bỏc, lỳc nào cũng cú vầng trăng bờn cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tự ủày, ủến “cảnh khuya” nỳi rừng Việt Bắc, rồi “nguyờn tiờu”…Tuy vậy, Bỏc chưa bao giờ thảnh thơi ủể ngắm trăng ủỳng nghĩa. Khi thỡ “trong tự khụng rựơu cũng khụng hoa”, khi thỡ “việc quõn ủang bận”. Chỉ cú bõy giờ, trong giấc ngủ yờn, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yờn bỡnh, ủể Bỏc nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sỏng hỡnh ảnh Bỏc. Nhỡn Bỏc ngủ ở ủấy thật bỡnh yờn, nhưng cú một sự thật dự ủau lũng cỏch mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bỏc ủó thật sự ra ủi mói mói. “Vẫn biết trời xanh là mói mói Mà sao nghe nhúi ở trong tim!” Trời xanh bao la kia kộo dài ủến vụ tận, khụng bao giờ chấm dứt. Dự lớ trớ vẫn luụn trấn an lũng mỡnh rằng Bỏc vẫn sống ủấy, vẫn cũn dừi theo Tổ quốc mói mói như màu xanh thanh bỡnh trờn nền trời Tổ quốc ủộc lập nhưng con tim ta vẫn nhúi ủau vỡ một sự – Thư viện Sỏch Tham Khảo 5 thật ủau lũng. Một từ “nhúi” của nhà thơ núi hộ ta nỗi ủau ủớn, nỗi ủau vượt lờn mọi lớ lẽ, mọi lập luận lớ trớ. Bỏc như trời xanh, Bỏc là mói mói, Bỏc vẫn sống trong tõm tưởng mỗi chỳng ta, Bỏc mói hiện diện trờn mỗi phần ủất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nờn ủất nước này. Nhưng mà Bỏc mất thật rồi, ta khụng cũn cú Bỏc trong cuộc ủời thường này. Mất Bỏc, cỏi thiếu vắng ấy liệu cú thể nào bự ủắp ủược? Tổ quốc ta ủó thật sự khụng cũn Bỏc dừi theo từng bước chõn, khụng cũn ủược Bỏc nõng ủỡ mỗi khi vấp ngó. Bỏc ra ủi, nỗi ủau ấy liệu cú từ ngữ nào diễn tả hết? Cả ủàn con Việt Nam luụn tiếc thương Bỏc, luụn nhớ về Bỏc như một cỏi gỡ ủú thật vĩ ủại, khụng thể xoỏ nhoà. Dự Bỏc ra ủi thật sự rồi nhưng những ủiều Bỏc ủó làm vẫn sẽ ủọng lại trong tõm hồn, hỡnh ảnh Bỏc vẫn tồn tại trường kỡ trong trỏi tim mỗi người dõn Việt Nam. Cuối cựng dẫu thương tiếc Bỏc ủến mấy, cũng ủến lỳc phải rời lăng Bỏc ủể ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt ủầy xỳc ủộng: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” Ngày mai phải rời xa Bỏc rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lờn, gợi về miền ủất xa xụi của Tổ quốc, một nơi từng cú vị trớ sõu sắc trong trỏi tim người. Một tiếng “thương” ấy là yờu, là biết ơn, là kớnh trọng cuộc ủời cao thượng, vĩ ủại của Người. ðú là tiếng thương của nỗi ủau xút khi mất Bỏc. Thương Bỏc lắm, nước mắt trào ra, thật ủỳng là tỡnh thương của người Việt Nam, vụ bờ bến và rất thật. “Muốn làm con chim hút quanh lăng Bỏc Muốn làm ủúa hoa tỏa hương ủõu ủõy Muốn làm cõy tre trung hiếu chốn này” Cựng với nỗi niềm yờu thương vụ hạn, tỏc giả núi lờn muụn vàn lời tự nguyện. ðiệp ngữ “muốn làm” khẳng ủịnh mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta cú thể biến hỡnh thành những gỡ thõn yờu quanh nơi Bỏc ngủ ủể mói mói ủược chiờm ngưỡng Bỏc, cuộc ủời và tõm hồn của Bỏc, ủể bày tỏ lũng ta với Bỏc. Một con chim nhỏ gúp tiếng hút làm vui những bỡnh minh của Bỏc, một ủúa hoa gúp mựi hương làm thơm khụng gian quanh Bỏc hay một cõy tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa búng mỏt dịu dàng quờ hương của Bỏc, tất cả ủều làm Bỏc vui và ngủ an giấc hơn. ðõy cũng chớnh là nguyện ước chõn thành, sõu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bỏc. Bỏc ơi! Bỏc hóy ngủ lại bỡnh yờn nhộ, chỳng chỏu về miền Nam tiếp tục xõy dựng Tổ quốc từ nền múng Bỏc ủó tạo ra ủõy! Cõu thơ trầm xuống ủể kết thực, ngừng lặng hũan toàn. Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bỏc cú nhiều ủiểm nghệ thuật rất ủặc sắc, giỳp biểu hiện thành cụng thờm về những giỏ trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tỏm chữ, trong cú cú xen một vài cõu bảy và chớn chữ. Nhiều hỡnh ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài ủời thực ủó ủược ẩn dụ, trở thành một cỏch thể hiện cảm xỳc thành kớnh của tỏc giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lỳc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện ủền ủỏp cụng ơn Bỏc, lỳc chậm là lỳc thể hiện lũng thành kớnh với Bỏc. Giọng ủiờu của bài trang trọng, tha thiết, ngụn ngữ thơ bỡnh dị mà cụ ủỳc. Bằng những từ ngữ, lời lẽ chõn thành, giàu cảm xỳc, nhà thơ Viễn Phương ủó bày tỏ ủược niềm xỳc ủộng cựng lũng biết ơn sõu sắc ủến Bỏc trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bỏc. Bài thơ như một tiếng núi chung của toàn thể nhõn dõn Việt Nam, biểu – Thư viện Sỏch Tham Khảo 6 lộ niềm ủau xút khi thấy Bỏc kớnh yờu ra ủi. Qua bài thơ, tụi cảm thấy rằng ủất nước ta cú hoà bỡnh như ngày hụm nay một phần lớn là nhờ cụng lao của Bỏc, như vậy chỳng ta cần phải biết xõy dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, ủể những cụng ơn to lớn của Bỏc khụng bị bỏ phớ. ------------------------------------------------ ðề 3. Em hóy phõn tớch hỡnh ảnh “ðầu sỳng trăng treo” trong bài thơ ðồng chớ của Chớnh Hữu. Khụng biết tự bao giờ ỏnh trăng ủó ủi vào văn học như một huyền thoại ủẹp. ở truyền thuyết “Chỳ cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng ủời sống tinh thần bỡnh dị ủậm ủà màu sắc dõn tộc của nhõn dõn ta. Hơn thế nữa, trăng ủó ủi vào cuộc chiến ủấu, trăng bảo vệ xúm làng, trăng ủược nhà thơ Chớnh Hữu kết tinh thành hỡnh ảnh “ủầu sỳng trăng treo” rất ủẹp trong bài thơ “ðồng chớ” của mỡnh. Sau hơn mười năm làm thơ, Chớnh Hữu cho ra mắt tập “ðầu sỳng trăng treo”. Thế mới biết tỏc giả ủắc ý như thế nào về hỡnh ảnh thật ủẹp, thơ mộng, rất thực nhưng khụng thiếu nột lóng mạn ủú. ðầu sỳng trăng treo- ủú là một hỡnh ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh ủộng. Giữa nỳi rừng heo hỳt “rừng hoang sương muối” giữa ủờm thanh vắng tĩnh mịch bỗng xuất hiện một ỏnh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hỡnh ảnh này cũng thật lạ làm sao, sỳng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cỏch nhau vời vợi bỗng hoà quyện vào nhau thành một hỡnh tượng gắn liền. Nhà thơ khụng phải tả mà chỉ gợi, chỉ ủưa hỡnh ảnh nhưng ta liờn tưởng nhiều ủiều. ðờm thanh vắng người lớnh bờn nhau chờ giặc tới, trăng chếch búng soi sỏng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sỏng tỡnh cảm họ, soi sỏng tõm hồn họ. Giờ ủõy, người chiến sĩ như khụng cũn vướng bận về cảnh chiến ủấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ỏnh trăng toả ngời trờn ủỉnh nỳi, tõm hồn người nụng dõn “nước mặn ủồng chua” hay “ủất cày trờn sỏi ủỏ” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ ủang ngắm nhỡn vẻ ủẹp ỏnh trăng vốn cú tự ngàn ủời. Phải là một người cú tõm hồn giàu lóng mạn và một phong thỏi ung dung bỡnh tĩnh lạc quan thỡ anh mới cú thể nhỡn một hỡnh ảnh nờn thơ như thế. Chỳt nữa ủõy khụng biết ai sống chết, chỳt nữa ủõy cũng cú thể là giõy phỳt cuối cựng ta cũn ở trờn ủời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với ỏnh trăng. ỏnh trăng như xua tan cỏi lạnh giỏ của ủờm sương muối, trăng toả sỏng làm ngời ngời lũng người, trăng như cựng tham gia, cựng chứng kiến cho tỡnh ủồng chớ ủồng ủội thiờng liờng của những ngươỡ linh. Trăng truyền thờm sức mạnh cho họ, tắm gội tõm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là ủồng chớ của anh bộ ủội Cụ Hồ. ðầu sỳng trăng treo- hỡnh ảnh thật ủẹp và giàu sức khỏi quỏt. Sỳng và trưng kết hợp nhau; sỳng tượng trưng cho chiến ủấu- trăng là hỡnh ảnh của thanh bỡnh hạnh phỳc. Sỳng là con người, trăng là ủất nước quờ hương của bốn nghỡn năm văn hiến. Sỳng là hỡnh ảnh người chiến sĩ gan dạ kiờn cường- Trăng là hỡnh ảnh người thi sĩ. Sự kết hợp hài hoà tạo – Thư viện Sỏch Tham Khảo 7 nờn nột lóng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể ủó núi lờn lớ tưởng, mục ủớch chiến ủấu mà người lớnh ấy ủang tham gia. Họ chiến ủấu cho sự thanh bỡnh, chiến ủấu cho ỏnh trăng mói nghiờng cười trờn ủỉnh nỳi. Ta hóy tưởng tượng xem: giữa ủờm khuya rừng nỳi trập trựng bỗng hiện lờn hỡnh ảnh người lớnh ủứng ủú với sỳng khoỏc trờn vai, nũng sỳng chếch lờn trời và ỏnh trăng lơ lửng ngay nũng ngọn sỳng. ðú là biểu tượng Khỏt Vọng Hoà Bỡnh, nú tượng trưng cho tư thế lạ quan bỡnh tĩnh, lóng mạn của người bảo vệ Tổ quốc. Cỏi thõn của cõu thơ “ðầu sỳng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ mọc thỡ thật thà quỏ, làm sao cũn nột lóng mạn ?. Và hóy thay một lần nữa bằng từ “lờn” cũng khụng phự hợp, vỡ nú là hiện tượng tự nhiờn: trăng trũn rồi khuyết, trăng lờn trăng lặn sẽ khụng cũn cỏi bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ cú trăng “treo”. Phải, chỉ cú “ðầu sỳng trăng treo” mới diễn tả hết ủược cỏi hay, cỏi bồng bềnh thơ mộng của một ủờm trăng “ủứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chỳt nào. Ta nờn hiểu bài thơ dường như ủược sỏng tỏc ở thời ủiểm hiện tại “ủờm nay” trong một khụng gian mà mặt ủất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lũng ủầy phấp phỏng giặc sẽ tới cú nghĩa là cỏi chết cú thể ủến từng giõy từng phỳt. Thế nhưng người lớnh ấy vẫn ủứng cạnh nhau ủể tõm hồn họ vỳt lờn nở thành vầng trăng. Nếu miờu tả hiện thực thỡ vầng trăng ấy sẽ cú hỡnh khối của khụng gian ba chiều. ở ủõy, từ ủiểm nhỡn xa, cả vầng trăng và sỳng ủều tồn tại trờn một mặt phẳng và trong hội hoạ nú mang tớnh biểu tượng cao. Tố Hữu cũng cú một cõu thơ kiểu này: “ỏnh sao ủầu sỳng bạn cựng mũ nan” và Phạm Tiến Duật thỡ “Và vầng trăng vượt lờn trờn quầng lửa” hay Hoàng Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thụi một nửa. Ai bỏ quờn ở phớa chõn trời…”. Nhưng cú lẽ cụ kết nhất, hay nhất vẫn là “ðầu sỳng trăng treo”. Như ủó núi ở trờn, khụng phải ngẫu nhiờn mà Chớnh Hun lấy hỡnh ảnh “ðầu sỳng trăng treo” làm tựa ủề cho tập thơ của mỡnh. Nú là biểu tượng, là khỏt vọng và cũng là biểu hiện tuyệt vời chất lóng mạn trong bài thơ cỏch mạng. Lóng mạng nhưng khụng thoỏt li, khụng quờn ủược nhiệm vụ và trỏch nhiệm của mỡnh. Lóng mạn vỡ con người cần cú những phỳt sống cho riờng mỡnh. Trước cỏi ủẹp mà con người trở nờn thờ ơ lónh ủạm thỡ cuộc sống vụ cựng tẻ nhạt. Âm hưởng của cõu thơ ủó ủi ủỳng với xu thế lịch sử của dõn tộc. Hỡnh ảnh trăng và sỳng ủó cú nhiều trong thơ Việt Nam nhưng chưa cú sự kết hợp kỡ diệu nào bằng hỡnh ảnh ðầu sỳng trăng treo của Chớnh Hữu. Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Phỏp cú núi “Nhà văn là người cho mỏu” thỡ tụi hónh diện núi với văn sĩ rằng: Chớnh Hữu ủó cho mỏu ủể tạo nờn cõu thơ tuyệt vời ủể cống hiến cho cuộc khỏng chiến của chỳng ta. Và bạn ơi! Bạn hóy thả cựng tụi những chỳ chim trắng trờn bầu trời, hóy hỏt vang lờn ca khỳc Hoà Bỡnh vỡ hỡnh ảnh ủầu sỳng trăng treo mà nhà thơ ủó gởi vào ủú bao nhiờu khỏt vọng nay ủó thành hiện thưc. Phải chăng chất lớnh ủó thấm dần vào chất thi ca, tạo nờn dư vị tuyệt vời cho tỡnh " ðồng chớ" Núi ủến thơ trước hết là núi ủến cảm xỳc và sự chõn thành. Khụng cú cảm xỳc, thơ sẽ khụng thể cú sức lay ủộng hồn người, khụng cú sự chõn thành chỳt hồn của thơ cũng chỡm vào quờn lóng. Một chỳt chõn thành, một chỳt lóng mạn, một chỳt õm vang mà Chớnh Hữu ủó gieo vào lũng người những cảm xỳc khú quờn. Bài thơ " ðồng chớ" – Thư viện Sỏch Tham Khảo 8 với nhịp ủiệu trầm lắng mà như ấm ỏp, tươi vui; với ngụn ngữ bỡnh dị dường như ủó trở thành những vần thơ của niềm tin yờu, sự hy vọng, lũng cảm thụng sõu sắc của một nhà thơ cỏch mạng Phải chăng, chất lớnh ủó thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc ủó hũa dần vào cỏi thi vị của thơ ca tạo nờn những vần thơ nhẹ nhàng và ủầy cảm xỳc? Trong những năm thỏng khỏng chiến chống thực dõn Phỏp gian lao, lẽ ủương nhiờn,hỡnh ảnh những người lớnh, những anh bộ ủội sẽ trở thành linh hồn của cuộc khỏng chiến, trở thành niềm tin yờu và hy vọng của cả dõn tộc. Mở ủầu bài thơ"ðồng chớ", Chớnh Hữu ủó nhỡn nhận, ủó ủi sõu vào cả xuất thõn của những người lớnh: "Quờ hương anh ủất mặn ủồng chua Làng tụi nghốo ủất cày lờn sỏi ủỏ" Sinh ra ở một ủất nước vốn cú truyền thống nụng nghiệp, họ vốn là những người nụng dõn mặc ỏo lớnh theo bước chõn anh hựng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. ủất nước bị kẻ thự xõm lược, Tổ quốc và nhõn dõn ủứng dưới một trũng ỏp bức. "Anh" và "tụi", hai người bạn mới quen, ủều xuất than từ những vựng quờ nghốo khú. Hai cõu thơ vừa như ủối nhau, vừa như song hành, thể hiện tỡnh cảm của những người lớnh. Từ những vựng quờ nghốo khổ ấy, họp tạm biệt người thõn, tạm biệt xúm làng, tạm biệt những bói mớa, bờ dõu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra ủi chiến ủấu ủể tỡm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khú khăn ấy dường như khụng thể làm cho những người lớnh chựn bước: "Anh với tụi ủụi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Sỳng bờn sỳng, ủầu sỏt bờn ủầu ðờm rột chung chăn thành ủụi tri kỉ" Họ ủến với Cỏch mạng cũng vỡ lý tưởng muốn dõng hiến cho ủời. "Sống là cho ủõu chỉ nhận riờng mỡnh". Chung một khỏt vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến ủấu, họ lại kề vai sỏt cỏnh chung một chiến hào....Dường như tỡnh ủồng ủọi cũng xuất phỏt từ những cỏi chung nhỏ bộ ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn,cõu thơ cũng trở nờn gần gũi hơn: "Sỳng bờn sỳng ủầu sỏt bờn ủầu ðờm rột chung chăn thành ủụi tri kỉ ðồng chớ !..." Một loạt từ ngữ liệt kờ với nghệ thuật ủiệp ngữ tài tỡnh, nhà thơ khụng chỉ dưa bài thơ lờn tận cựng của tỡnh cảm mà sự ngắt nhịp ủột ngột, õm ủiệu hơi trầm và cỏi õm vang lạ lựng cũng làm cho tỡnh ủồng chớ ủẹp hơn, cao quý hơn. Cõu thơ chỉ cú hai tiếng nhưng õm ủiệu lạ lựng ủó tạo nờn một nốt nhạc trầm ấm, thõn thương trong lũng người ủọc. Trong muụn vàn nốt nhạc của tỡnh cảm con người phải chăng tỡnh ủồng chớ là cỏi cung bậc cao ủẹp nhất, lớ tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chớnh Hữu ủó thổi vào linh hồn của bài thơ tỡnh ủồng chớ keo sơn, gắn bú và một õm vang bất diệt làm cho bài thơ mói trở thành một phần ủẹp nhất trong thơ Chớnh Hữu. Hồi ức của những người lớnh, những kĩ niệm riờng tư quả là bất tận: – Thư viện Sỏch Tham Khảo 9 "Ruộng nương anh gửi bạn thõn cày Gian nhà khụng mặc kệ giú lung lay" Cỏi chất nụng dõn thuần phỏc của những anh lớnh mới ủỏng quý làm sao ! ðối với những người nụng dõn, ruộng nương, nhà cuarwlaf những thứ quý giỏ nhất. Họ sống nhờ vào ủồng ruộng,họ lớn lờn theo cõu hỏt ầu ơ của bà của mẹ.Họ lơn lờn trong những "gian nhà khụng mặc kẹ giú lung lay". Tuy thế, họ vẫn yờu, yờu lắm chứ những mảnh ủất thõn quen,

File đính kèm:

  • pdfMot-So-Bai-Van-Hay-Lop-9.pdf