Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận - công tác vận động quần chúng - là một hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của Người.
Thương yêu nhân dân, thương yêu con người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân là quan điểm bao trùm trong toàn bộ Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở để hình thành tư tưởng về công tác dân vận của Người. Người luôn ý thức “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hoặc “ở trong xã hội muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”.
Trước lúc đi xa, Bác còn viết trong Di chúc: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Bác nói về việc riêng của Bác: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điểm gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
8 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 1082 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định công tác vận động quần chúng là một nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa quyết định cho sự thành bại của cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận - công tác vận động quần chúng - là một hệ thống những quan điểm, phương thức dân vận được thấm nhuần trong cả cuộc đời và trong các tác phẩm của Người.
Thương yêu nhân dân, thương yêu con người, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân là quan điểm bao trùm trong toàn bộ Tư tưởng Hồ Chí Minh, cơ sở để hình thành tư tưởng về công tác dân vận của Người. Người luôn ý thức “Dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết. Dân là gốc của nước. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Hoặc “ở trong xã hội muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là quan trọng hơn hết”.
Trước lúc đi xa, Bác còn viết trong Di chúc: “Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”. Bác nói về việc riêng của Bác: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điểm gì phải hối hận, chỉ tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Người coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, nhưng nhân dân cần Đảng dẫn đường. Đảng có trách nhiệm đoàn kết, tập hợp nhân dân, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. Trong cuốn "Đường Kách Mệnh" (1927) Người đã khẳng định: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Đó là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ cơ sở nhận thức khoa học: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đoàn kết, tập hợp được đông đảo nhân dân. Đảng dù vĩ đại đến mấy cũng chỉ là một bộ phận của nhân dân. Người nêu lên một luận đề như một chân lý: Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công.
Tư tưởng cơ bản chỉ đạo công tác dân vận
- Tất cả vì lợi ích của nhân dân. Người thường nói: Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân thì ta hết sức tránh. Đó cũng chính là mục đích của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.
- Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt công tác dân vận. Tư tưởng dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có cái cốt lõi: Dân là gốc. Bản chất dân chủ là quyền làm người. Bác Hồ nói: Lãnh đạo một nước mà để cho nước mình lạc hậu, bị thiệt thòi trong hưởng hạnh phúc con người cũng là mất dân chủ.
- Dân là gốc thì dân phải là chủ và dân phải làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Bác đánh giá rất cao về dân chủ: Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Đoàn kết, tập hợp lực lượng là nhiệm vụ cơ bản của công tác dân vận.
Đoàn kết không chỉ là nhiệm vụ cơ bản của công tác dân vận, mà còn là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Trong tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Người có những vấn đề cơ bản sau:
- Giữ vai trò của Đảng Cộng sản, hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc. Người nói: “Cách mạng muốn thành công, trước hết phải có Đảng cách mệnh”. “Nhân dân cần có Đảng dẫn đường. Bởi vậy đại đoàn kết phải có Đảng lãnh đạo. Đảng phải được xây dựng xứng đáng với vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là thành viên của Mặt trận. Đảng của giai cấp nhưng Đảng cũng là của dân tộc. Nhân dân công nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của mình. Đây thật là một vinh dự.
Đảng là thành viên bình đẳng trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng là thành viên lãnh đạo Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng thuyết phục và nêu gương. Đảng phải tiêu biểu cho mọi sự đoàn kết nhất trí, bảo đảm dân chủ nội bộ, thống nhất tư tưởng, tự phê bình và phê bình.
Phương thức cơ bản của công tác dân vận là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc dân là chủ, phương thức cơ bản của công tác dân vận là phương pháp dân chủ chứ không phải là những thủ thuật chính trị. Tuy khi đó chưa có phương châm “dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra”, nhưng cách nói của Bác trong bài báo Dân vận (15/10/1949) cũng chính là như vậy.
“Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.
Bên cạnh phương thức cơ bản này, Bác Hồ thường nhấn mạnh:
Một là, cán bộ đảng viên phải tự mình làm gương cho quần chúng. Với đặc điểm, tâm lý của người phương Đông, người Việt Nam, việc nêu gương có một tác dụng to lớn. Cán bộ, đảng viên phải tự mình làm gương cũng chính là yêu cầu đầu tiên của phong cách Lêninnít. Lời nói đi đôi với việc làm.
Hai là, phải gần gũi quần chúng, kiên trì, giải thích cho quần chúng hiểu rõ đường lối, chủ trương, chính sách. Người dạy: Muốn thực sự gần gũi quần chúng thì phải cùng ăn, cùng ở, cùng làm mới biết sinh hoạt của quần chúng thế nào... mới biết nguyện vọng của quần chúng thế nào.
Ba là, cách tổ chức, cách làm việc cũng phải phù hợp với quần chúng. Lực lượng làm công tác dân vận là lực lượng của cả hệ thống chính trị - trước hết là của chính quyền.
Trong bài báo Dân vận, Bác viết: Tất cả cán bộ, chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh...) đều phải phụ trách dân vận.
Điều ấy có nghĩa là, tất cả cán bộ chính quyền đều phải làm dân vận. Đây là đặc điểm nổi bật của công tác dân vận khi Đảng ta có chính quyền. Chính quyền của ta là công cụ chủ yếu của nhân dân. Chính quyền không những chỉ phải làm dân vận mà còn có nhiều điều kiện làm công tác dân vận thuận lợi hơn.
Phẩm chất và phong cách người cán bộ dân vận
Vấn đề phẩm chất, tác phong hay phong cách (tác phong và tư cách) của người cán bộ cách mạng, cán bộ dân vận có ý nghĩa rất quan trọng. Về phong cách làm việc của cán bộ dân vận, Bác Hồ có nhiều cách nói khác nhau, ở những ngữ cảnh khác nhau nhưng tập trung nhất là trong bài báo Dân vận ngày 15/10/1949, Người đúc kết thành 12 từ: óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm.
Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu, Bác Hồ muốn khẳng định công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những công thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học - khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người, phải dày công tìm tòi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân dân có hiệu quả. “Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách. “Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay, “phải thật thà nhúng tay vào việc”, không được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại. Bác cũng nghiêm khắc phê phán “bệnh nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”.
Đối lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” tức là nói mà không làm, và nếu có làm thì chỉ làm theo lối quan liêu “bàn giấy”. Trong thư gửi các đồng chí Bắc bộ năm 1947, Bác đã phê phán tác phong làm việc kiểu này: “Thích làm việc bằng giấy tờ thật nhiều. Ngồi một nơi chỉ tay năm ngón không chịu xuống địa phương kiểm tra công tác để vạch ra những kế hoạch thi hành chỉ thị, nghị quyết của đoàn thể cho chu đáo. Những chỉ thị, nghị quyết cấp trên gửi xuống các địa phương có thực hiện được hay không, các đồng chí cũng không biết đến”.
Và Bác nhấn mạnh hậu quả tai hại của căn bệnh này: “Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi, đến chốn”. “Phải thật thà nhúng tay vào việc”.
Người làm dân vận phải thật thà “nhúng” tay vào việc, tức là làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hàng ngày của quần chúng để thực hiện mục đích của công tác dân vận. Nếu “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì làm sao hiểu được dân, làm sao “vận” được dân, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật sự.
Thực hiện đường lối của Đảng và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiều năm qua công tác dân vận của cả hệ thống chính trị được triển khai với nhiều nội dung, hình thức phong phú, đạt kết quả tốt.
TTXVN
TƯ TƯỞNG “DÂN VẬN” CỦA HỒ CHÍ MINH – “CẨM NANG” CỦA CÔNG TÁC DÂN VẬN THỜI KỲ MỚI
Nhân kỷ niệm 79 năm Ngày Truyền thống dân vận của Đảng, 60 năm tác phẩm “Dân vận” của Hồ Chí Minh (lần đầu tiên đăng trên tờ Sự thật, ngày 15/10/1949), càng đọc kỹ tác phẩm này càng thấm thía tầm tư tưởng của Người về công tác quan trọng này trước yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Giữa lúc công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta ở vào thời điểm vô cùng cam go, quyết liệt, tác phẩm “Dân vận” ra đời. Đó thực sự là một “cẩm nang”, kịp thời chỉ dẫn một cách đầy đủ và sâu sắc cả về mục đích, đối tượng; cả về nhiệm vụ, phương pháp, tính hiệu quả... của công tác dân vận đối với cán bộ, đảng viên; tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể lúc bấy giờ.
Trước hết, “dân vận”, hiểu theo nghĩa giản dị nhất - chính là công tác tuyên truyền và vận động nhân dân.
Về hình thức: Đây là một bài viết rất ngắn gọn, từ đầu đề (chỉ vỏn vẹn 2 từ), đến dung lượng (chỉ có 573 từ); được diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với quần chúng; văn phong súc tích, có tính khái quát cao; cùng một kết cấu mạch lạc, chặt chẽ, sáng rõ - là phong cách hành văn vốn có của Hồ Chí Minh nên rất dễ nhớ, dễ thuộc và dễ làm theo.
Về nội dung: Giản dị, ngắn gọn mà không hề sơ lược. Tác phẩm “Dân vận” đã gói ghém một cách đầy đủ và sâu sắc những quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác này.
Về tầm quan trọng của công tác dân vận: Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Từ đó, chúng ta hiểu: Dân vận là cái gốc, là điểm xuất phát của mọi phong trào cách mạng của quần chúng và là sự khởi đầu của mọi thành công. Muốn sự nghiệp cách mạng thành công, trước hết phải biết tuyên truyền và vận động nhân dân - chính là làm tốt công tác dân vận.
Về mục đích của công tác dân vận: Cái đích chung và cao nhất của sự nghiệp cách mạng mà Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương trước sau vẫn là “từ dân, vì dân, cho dân”. Để đạt được điều đó, phải xây dựng cho được một nhà nước dân chủ - nhà nước mà trong đó, người dân được thực sự làm chủ cuộc đời mình: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “... ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”; đồng nghĩa với mọi người dân đều được sống trong một xã hội mà đời sống vật chất lẫn văn hóa - tinh thần không ngừng được cải thiện và nâng cao. Theo đó, tuyên truyền, vận động toàn dân để xây dựng một nền dân chủ thực sự là cái đích cao nhất mà công tác dân vận hướng tới.
Về bản chất của công tác dân vận: Theo Hồ Chí Minh, thực chất hay bản chất của công tác dân vận, chính là nhằm “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho...”. Nghĩa là phải tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng.
Về lực lượng làm công tác dân vận: Chỉ rõ ai là người làm công tác dân vận, Hồ Chí Minh viết: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả các hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh, v.v..) đều phải phụ trách dân vận”. Như vậy, lực lượng làm công tác dân vận - theo Hồ Chí Minh - không chỉ là những người chuyên trách công tác này, mà rất đông đảo, với nhiều tổ chức, cá nhân cùng tham gia. Đó chính là sức mạnh tập thể trong các phong trào cách mạng nói chung, trên các mặt trận và lĩnh vực cụ thể nói riêng, trong đó có lĩnh vực dân vận.
Về cách thức, phương pháp làm công tác dân vận: Trong nội dung này, Hồ Chí Minh tập trung chỉ rõ những phương thức, cách thức, cũng đồng thời là các yêu cầu cụ thể của công tác dân vận. Đó là: “Phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
- Óc nghĩ: Điều này được Hồ Chí Minh đặt ở vị trí hàng đầu, cho thấy Người đặc biệt đề cao trí tuệ và yêu cầu về sự động não của người làm công tác dân vận. Hoạt động dân vận trước hết chính là tham gia tổ chức các phong trào cách mạng của quần chúng. Để việc tổ chức đạt hiệu quả cao, rõ ràng bên cạnh am hiểu thực tế phải có sự hiểu biết về lý luận. Với người cán bộ dân vận, đó là lý luận của chủ nghĩa Mác -Lê-nin, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nắm vững lý luận và dựa trên thực tiễn để suy nghĩ ra những phương pháp, cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục quần chúng; tức là óc phải luôn luôn suy nghĩ để không chỉ biết đúng, sai, mà còn biết cách làm và làm như thế nào cho đúng và đạt hiệu quả.
- Mắt trông: Là quan sát mọi sự việc, hiện tượng từ thực tiễn phong trào cách mạng của quần chúng, để “trăm nghe không bằng một thấy”. Nhưng không phải “nhìn” chỉ để mà nhìn. Mà phải có sự nhạy cảm, tinh tế trong việc quan sát, từ đó kết hợp với “óc nghĩ” xác định được đúng, sai, nhận rõ bản chất và hiện tượng của từng sự việc, từng vấn đề để làm đúng và tham mưu kịp thời cho Đảng và Nhà nước những đề xuất, kiến nghị; từ đó có các giải pháp đúng đắn để đưa phong trào của quần chúng đi đúng hướng. Điều này cũng gián tiếp cho thấy, Hồ Chí Minh muốn nhắc nhở cán bộ, đảng viên làm công tác dân vận, phải thường xuyên sâu sát cơ sở. Vì chỉ có sát cơ sở mới có thể “thấy” mọi sự việc, vấn đề. Theo đó, muốn vận động quần chúng một cách thiết thực, muốn làm tốt vai trò tham mưu phải “mục sở thị” được các sự việc và vấn đề liên quan đến công tác dân vận.
- Tai nghe: Đây là một phương pháp khoa học của công tác dân vận. Theo Hồ Chí Minh, cùng với “óc nghĩ”, “mắt trông”, người làm công tác dân vận còn phải đồng thời nắm bắt kịp thời các thông tin từ quần chúng. Đòi hỏi phải biết nghe dân nói, từ đó mà hiểu được những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của dân; loại trừ những thông tin thiếu chân thực, chính xác. Nghe dân nói, cũng là để biết dân đã hiểu gì, hiểu đến mức thế nào, đã làm như thế nào và làm được đến đâu... làm cơ sở để báo cáo với cấp trên; còn bản thân mình cũng thấy được những gì cần phải bổ sung, điều chỉnh khi thực thi công tác dân vận. Tuy nhiên, để nghe đúng và chính xác, phải có thái độ khách quan và tinh thần cầu thị khi tiếp xúc với nhân dân thì nhân dân mới tin tưởng và sẵn sàng nói ra những suy nghĩ, nguyện vọng của mình cũng như phản ánh đúng thực trạng của cơ sở.
- Chân đi: Chỉ có đi mới thấy, mới nghe, mới biết, và mới truyền đạt được những điều cần tuyên truyền, vận động với dân. Đi để gần dân, sát dân, chính là giúp người làm dân vận không xa rời và lạc hậu với thực tiễn sinh động của cơ sở. “Chân đi” cũng là thể hiện sự xông xáo, nhiệt tình của người cán bộ, đảng viên dân vận đối với các địa bàn làm “dân vận”. Và càng đi, người làm công tác này càng có dịp nhìn xa trông rộng, nghe nhiều, cập nhật được những việc, những vấn đề mới mẻ của cuộc sống; thôi thúc họ nghĩ nhiều, từ đó mà làm nhiều, đi kịp và đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong công tác dân vận.
- Miệng nói: Không chỉ nghe dân nói, mà cán bộ dân vận phải biết nói cho dân nghe. Đó là nói để dân biết, dân hiểu rõ các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước; nói để dân hiểu được quyền lợi và thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội... của mình. Để dân có thể tiếp thu và hiểu được mà thực hiện, phải tuyên truyền bằng miệng và phải có cách nói để có sức truyền cảm và thuyết phục, từ đó mà dân hiểu, dân tin.
- Tay làm: Nếu nói là để dân nghe, thì làm là để dân thấy, dân tin, dân học làm theo. Đó chính là gắn “ngôn” với “hành” (lời nói đi đôi với hành động). Đây là một yêu cầu, một phương pháp hết sức quan trọng đối với cán bộ nói chung, cán bộ làm công tác dân vận nói riêng. Sinh thời, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến hai mặt của một vấn đề này. Người từng có hàng loạt bài viết, bài nói phê phán những cán bộ, đảng viên “nói không đi đôi với làm”, “nói hay mà làm dở” hoặc “đánh trống bỏ dùi”. Người chỉ rõ: “Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói, tay làm để làm gương cho nhân dân. Nói hay mà không làm thì nói vô ích”. Người cũng từng nhấn mạnh rằng, nói về đạo đức đi đôi với thực hành bằng đạo đức, coi trọng hiệu quả công việc, lấy hiệu quả của công việc làm thước đo đạo đức: “Phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình...”. Người cũng từng cho rằng, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội và lòng tin của dân đối với Đảng không phải lý tưởng cao xa mà trước hết, cụ thể và trực tiếp nhất là ở tấm gương của những người cộng sản đang cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với dân, đặc biệt là những người có chức có quyền. “Dân vận không chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ. Trước hết là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ rằng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”.
Cuối cùng, để phát huy hiệu quả của công tác dân vận, Hồ Chí Minh chỉ ra những kinh nghiệm: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra sức thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm tra lại công việc rút ra kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”. Điều này thật thấm thía! Vì cũng theo Hồ Chí Minh: “Mục đích có đồng, chí mới đồng; chí có đồng, tâm mới đồng, tâm đã đồng lại phải biết cách làm, thì làm mới chóng”. Đó chính là khẩu hiệu “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà ngày nay chúng ta thường đề cập.
Như vậy, từ “đi” đến “nhìn”, từ “nghe” đến “nghĩ” và từ “nói” đến “làm” là những công việc liên hoàn của người cán bộ, đảng viên và các tổ chức làm công tác dân vận. Và đó cũng là phẩm chất và hành động tự nhiên của người làm công tác này.
Đây cũng chính là tư tưởng nhất quán từ trong sâu thẳm của sự suy nghĩ đến hành động thường nhật suốt cả cuộc đời của Hồ Chủ tịch; đã làm nên một nhân cách lớn và vô cùng vĩ đại - nhân cách Hồ Chí Minh.
Tạp chí Cộng sản
PHƯƠNG PHÁP DÂN CHỦ HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO
Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình phát triển của tư tưởng dân chủ mà Người là tấm gương tiêu biểu nhất, không chỉ trong công tác lãnh đạo mà còn trong sinh hoạt thường ngày.
Người luôn luôn chăm lo, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, bảo đảm cho Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân. Đó là quan điểm xuyên suốt và là một trong những vấn đề nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh nói chung và nói riêng phương pháp dân chủ trong công tác lãnh đạo được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau: Trước hết lãnh đạo theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Lãnh đạo là một khoa học, đồng thời cũng là một nghệ thuật. Là người sáng lập và lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên. Theo Người có hai cách lãnh đạo đối lập nhau, đó là lãnh đạo theo lối dân chủ và lãnh đạo theo lối quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Sự khác nhau của hai cách lãnh đạo trên thể hiện sự nhận thức về nguyên tắc cốt lõi trong lãnh đạo là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo không tập thể thì dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, mất dân chủ và kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân thì sẽ dẫn đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ và kết quả cũng là hỏng việc. Từ đó Người khẳng định tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách tức là dân chủ tập trung và Người coi đó là chế độ lãnh đạo dân chủ. Để đề phòng cách hiểu máy móc, hình thức chủ nghĩa về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Theo Người, không phải vấn đề gì nhỏ nhặt, vụn vặt, một người có thể giải quyết được cũng đem ra bàn mới là tập thể lãnh đạo, đó là hiểu một cách máy móc. Song, việc nhỏ nhưng quan trọng vẫn cần tập thể bàn bạc, quyết định. Hồ Chí Minh giải thích rằng một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy, nhiều kinh nghiệm đến đâu cũng không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Gộp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề được thấy rõ mọi mặt. Những việc đã bàn kỹ, quyết định theo tập thể rồi thì phải giao cho cá nhân phụ trách, tránh sự đùn đẩy, tranh công đổ lỗi cho nhau. Người nhấn mạnh: Người cầm quyền, người lãnh đạo là được dân ủy quyền. Họ sử dụng quyền lực được ủy thác, nhưng lại cứ tưởng là quyền lực của cá nhân, bắt người khác phải phục tùng, kể cả những quyết định sai, đó là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, là cách làm phản dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán cách làm thiếu dân chủ, tác phong độc đoán, chuyên quyền trong cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ quan liêu, độc đoán, chuyên quyền là mặt đối lập của dân chủ, là kẻ thù của dân chủ, nhưng lại là căn bệnh dễ mắc phải của lãnh đạo. Nguyên nhân sâu xa của căn bệnh ấy là do cán bộ xa dân, thiếu niềm tin ở quần chúng, đồng thời những cán bộ đó cũng chưa đủ phẩm chất, năng lực làm việc, thực hiện dân chủ, không sẵn sàng chịu sự kiểm tra, giám sát, phê bình trực tiếp của dân, không lắng nghe ý kiến của dân. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở bệnh quan liêu, mệnh lệnh chỉ đưa đến kết quả là hỏng việc và thực hành dân chủ rộng rãi cũng là cách chống quan liêu tích cực. Để chống quan liêu, xây dựng tác phong dân chủ, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi người phải quán triệt và thực hiện theo đúng đường lối nhân dân với 6 điều là: “Đặt lợi ích nhân dân lên trên hết. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ. Có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân dân phê bình mình. Sẵn sàng học hỏi nhân dân. Tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính để nhân dân noi theo”.
Hồ Chí Minh coi 6 điều trên là 6 bài thuốc chống bệnh quan liêu, trong đó Người chỉ rõ vị thuốc cơ bản của mỗi bài thuốc chính là nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải tự phòng bệnh và biết tự chữa bệnh quan liêu của chính bản thân mình bằng “đi sát cơ sở, nằm ở cơ sở” để “hỏi dân, học dân và hiểu dân”, để “học cách so sánh của nhân dân”, “so đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách làm việc có khoa học”. Cán bộ đi cơ sở cần phải “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, phải năng động, xông xáo nắm bắt tình hình để xây dựng chương trình công tác, chứ không phải “đóng cửa lại viết chương trình, lập kế hoạch rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”. Xây dựng tác phong lãnh đạo dân chủ để chống lối lãnh đạo quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, căn bệnh này chỉ có thể chữa chạy bằng con đường dân chủ, bằng nhân dân mới có hiệu quả.
Phương pháp dân chủ của Hồ Chí Minh trong lãnh đạo bao giờ cũng từ trong quần chúng ra và trở về nơi quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, vì xa rời quần chúng mà sinh ra bệnh quan liêu. Người luôn tin vào lực lượng, trí tuệ và cách làm đầy sáng tạo của quần chúng. Người khẳng định: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” . Người cảnh báo không học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng, đó là sự sai lầm nguy hiểm, sẽ luôn luôn thất bại. Như vậy điểm nổi bật của cách lãnh đạo dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng, tin vào dân chúng và tuyệt đối không theo đuôi quần chúng, nhưng việc gì
File đính kèm:
- TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN.doc