MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Phần I. Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận 2
I. Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết Mác - xít 2
II. Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác 5
Phần II. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường 16
1. Vai trò động lực của lợi nhuận - xét từ khía cạnh lợi ích 16
2. Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Tư Bản Chủ Nghĩa 18
3. Vai trò của lợi nhuận đối với các nước Xã Hội Chủ Nghĩa 22
Kết luận 29
Tài liệu tham khảo 30
Mục lục 31
40 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 573 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI NóI ĐầU
Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) khác được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng,nhận thức của các Đảng va Nhà Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH.ở Việt Nam,từ sau những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự chỉ là một khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một đất nước.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển vượt bậc.Từ một nước nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào các khoản viện trợ,trợ giúp của các nước khác,Việt Nam đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và Dịch Vụ đã đạt được những thành quả đáng kể,đời sống của nhân dân được cải thiện vv...Có được sự phát triển đó,như trên đã nêu,chính là nhờ sự đổi mới trong nhận thức,tư duy về CNXH và con đường
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới trong nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng như sự đánh giá lại vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng .Đảng và Nhà Nước ta đã khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và vai trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm đưa Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xây dựng thành công CNXH.
Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận trong việc phát triển nền kinh tế là như thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến bây giờ mới được đặt ra mà từ rất lâu rồi con người đã có nhiều những quan điểm khác nhau về lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trường phái lý luận trước Mác cho đến những trường phái lý luận ngày nay,mỗi trường phái đều có những luận điểm,học thuyết của mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan điểm đó,học thuyết của Chủ Nghĩa Mác(CN Mác),được xây dựng trên nền tảng lý luận giá trị thặng dư(GTTD),đã giải thích được một cách đầy đủ,chính xác và khoa học nhất về nguồc gốc,bản chất và vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ học thuyết của CN Mác nói chung và những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói riêng đã được Đảng ta coi là cơ sở lý luận quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Hơn nữa,do những hạn chế về mặt lịch sử cho nên dù các học thuyết này có đúng đến mấy cũng luôn đòi hỏi phải được vận dụng một cách hợp lý vào điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia .Chính vì vậy mà đề án này,không chỉ phân tích nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận trong quan điểm của một số các trường phái từ trước đến nay,đặc biệt là học thuyết của Mác , xem xét tới vai trò của lợi nhuận như là một động lực cơ bản của nền kinh tế thị trường(KTTT) mà còn xem xét tới quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn ở nước ta để thấy được rõ nét hơn vai trò động lực của lợi nhuận.
Trong phạm vi cho phép của bàiviết và do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết này khó tránh khỏi những sai sót .Vì vậy,em rất mong nhận được sự chỉ dẫn,giúp đỡ của thầy giáo để em có được những nhận thức đúng đắn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
PHầN I : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
i/ Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết phi Mác-xít:
1/Quan điểm của trường phái Trọng Thương về lợi nhuận:
Về mặt hoàn cảnh lịch sử,Chủ Nghĩa Trọng Thương(CNTT) được ra đời vào thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của giai cấp tư bản.ở giai đoạn này,vấn đề được quan tâm hàng đầu và mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đó là tiền.Mọi cá nhân,mọi tổ chức,thậm chí là mọi quốc gia đều tìm mọi cách để tích trữ thật nhiều tiền,như nhận xét của Engels sau này thì
"các dân tộc chống đối nhau như những kẻ bủn xỉn,hai tay ôm khư khư túi tiền quí báu, nhìn sang người láng giềng với con mắt ghen tỵ,đa nghi".
Do được hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử như vậy cho nên toàn bộ học thuyết của CNTT nói chung và quan điểm về lợi nhuận nói riêng đều được xây dựng trên cơ sở đồng nhất giá trị với tiền bạc và lấy đối tượng nghiên cứu của Kinh Tế Chính Trị(KTCT) là lĩnh vực lưu thông,coi KTCT "là khoa học về của cải thương mại mà nhiệm vụ của nó là bán nhiều mua ít".Chính vì vậy,CNTT cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông,do sự mua bán trao đổi mà sinh ra.Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều ,mua rẻ bán đắt mà có.Họ cho rằng muốn có đượclợi nhuận thì không có cách nào khác ngoài việc trao đổi buôn bán.
Về vai trò của lợi nhuận thì CNTT đã khẳng định rằng lợi nhuận luôn là mục tiêu của mọi hoạt động trao đổi mua bán trên thị trường.Điều này được thể hiện qua việc một quốc gia phải luôn đảm bảo xuất siêu như Thomas Mun đã viết:" Chúng ta phải thường xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho người nước ngoài với số lượng hàng hoá lớn hơn số lượng chúng ta phải mua của họ".Còn đối với các thương nhân thì mục tiêu của họ luôn là mua rẻ bán đắt nhằm thu được phần lợi nhuận chênh lệch.
Nhìn chung thì các quan điểm về lợi nhuận của CNTT,cũng như các quan điểm khác của họ,chưa có được sự nhận thức,phân tích mang tính khoa học sâu sắc ,chưa mang tính quy luật.Tuy nhiên,các quan điểm này cũng đóng vai trò khá quan trọng, làm tiền đề cho các học thuyết kinh tế sau này.
2/Quan điểm của trường phái Tư Sản Cổ Điển về lợi nhuận:
Có thể nói rằng,trong giai đoạn trước Mác,trường phái Tư Sản Cổ Điển(TSCĐ) là trường phái tiến bộ nhất.Đây cũng là một trong ba trường phái được Mác chọn làm tiền đề lý luận cho học thuyết của mình.Sở dĩ trường phái TSCĐ được đánh giá cao như vậy là do đây là trường phái đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu của KTCT từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.Đó cũng là lần đầu tiên các nhà kinh tế học không dừng lại ở việc nghiên cứu,xem xét hiện tượng bên ngoài mà đã sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để đi sâu vào nhận thức,phân tích nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật của các sự vật,hiện tượng đồng thời xây dựng một hệ thống các phạm trù như giá trị,giá cả,lợi nhuận vv...
Được hình thành trong giai đoạn đầu của Chủ Nghĩa Tư Bản(CNTB),trường phái TSCĐ đã có một số những đại biểu kiệt xuất như W.Petty,A.Smith,D.Ricardo,vv...Quan điểm của các đại biểu này về lợi nhuận vừa mang tính kế thừa người đi trước vừa mang tính sáng tạo mà trong đó có một số quan điểm nổi bật về lợi nhuận cuả phái Trọng Nông,A.Smith hay D.ricardo mà ta sẽ xem xét sau đây.
Trước tiên là phái Trọng Nông,mặc dù thừa nhận quy luật giá trị tuy nhiên họ lại cho rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra giá trị,tạo ra cái mà họ gọi là sản phẩm thuần tuý còn lao động trong các nghành nghề khác như trong công nghiệp hay thương nghiệp thì không tạo ra giá trị.Sở dĩ như vậy,theo họ giải thích,là do trong nông nghiệp ngoài sức lao động của chính mình ra thì người nông dân còn được sự trợ giúp của thiên nhiên.Vì vậy mà lợi nhuận,theo quan điểm của họ,chính là phần thu nhập không lao động của nhà tư bản do người nông dân tạo ra.ở đây,mặc dù còn hạn chế khi cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý tuy nhiên trường phái Trọng Nông đã có một đóng góp quan trọng đó là bước đầu tìm ra nguồn gốc của cái gọi là sản phẩm thuần tuý,xét về bản chất chính là GTTD.Ngoài ra,trong lý luận của phái Trọng Nông,đã xuất hiện những mầm mống tư tưởng về lợi nhuận bình quân và xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận.
Đến A.Smith,người được coi là đại biểu của trường phái TSCĐ trong thời kỳ công trường
thủ công,thì đã có những bước tiến đáng kể về lý luận so với phái Trọng Nông.Ông khẳng định rằng không chỉ lao động trong nông nghiệp mà tất cả mọi hình thức lao động khác cũng đều tạo ra giá trị và lao động chính là thước đo của giá trị.Dựa trên quan điểm đúng đắn về giá trị lao động,A.Smith đã đưa ra những lý luận của mình về lợi nhuận.Ông cho rằng phần giá trị mà người lao động tạo ra được phân chia thành tiền lương trả cho người lao động,địa tô trả cho địa chủ và lợi nhuận trả cho nhà tư bản.Nói như vậy có nghĩa là nếu như ta coi địa tô là khoản khấu trừ thứ nhất thì lợi nhuận chính là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động và chúng đều có chung một nguồn gốc là lao động không dược trả công của người lao động.Xét về mặt lượng thì địa tô và lợi nhuận chính là những khoản dôi ra ngoài tiền lương của người lao động còn xét về mặt chất thì chúng phản ánh quan hệ bóc lột của tư bản và địa chủ đối với người lao động.Ông chỉ rõ rằng " Khi sở hữu TBCN xuất hiện,người công nhân trở thành lao động làm thuê thì tiền lương của họ không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ sản xuất ra nữa,mà chỉ là một bộ phận của giá trị đó".Ngoài ra,A.Smith cũng đã thấy được xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
D.Ricardo đã kế thừa một cách xuất sắc những tư tưởng của A.Smith.Là người sống trong thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp nên D.Ricardo đã có được những điều kiện khách quan để tiếp tục phát triển học thuyết của A.Smith.Về lợi nhuận,D.Ricardo cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản trả cho người công nhân.Tiến bộ hơn A.Smith,Ricardo không những đã thấy được xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận bình quân mà còn giải thích được nguyên nhân của sự giảm sút là do sự vận động , biến đổi của thu nhập giữa ba giai cấp địa chủ,công nhân và nhà tư bản.Ông giải thích rằng do trong nông nghiệp có tồn tại quy luật màu mỡ của đất đai ngày càng giảm,vì vậy,giá cả của nông phẩm sẽ ngày càng tăng lên làm cho tiền công của công nhân và địa tô của địa chủ cũng tăng lên trong khi lợi nhuận của nhà tư bản thì không tăng theo.Do vậy mà tỷ suất lợi nhuận sẽ ngày càng giảm xuống,gây thiệt hại cho nhà tư bản.Tuy nhiên, đây chỉ là những luận giải được thiết lập trên cơ sở những quan sát bên ngoài sự vật,hiện tượng chứ không hề mang tính khoa học.Chỉ đến khi Chủ Nghĩa Mác-Lênin(CN M-L) xuất hiện,với việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến,mới giải thích được đúng đắn quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần.
Trên đây,chúng ta đã xét tới một số trường phái lý luận trước Mác,các trường phái này đều là các trường phái có những quan điểm tiến bộ ,về lợi nhuận nói riêng và về các phạm trù kinh tế học khác nói chung,đặc biệt là trường phái TSCĐ.Những quan điểm này đều đã đạt được những thành tựu nhất định mặc dù vẫn còn rất nhiều hạn chế.Sở dĩ như vậy là do các học thuyết này phát sinh vào giai đoạn đầu mới hình thành của CNTB , lúc này mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản chưa gay gắt lắm còn mâu thuẫn cơ bản của xã hội lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa tư sản và địa chủ.Hơn nữa,vào lúc đó,chưa có một học thuyết nào,đứng về phe giai cấp công nhân,được hình thành để giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và chủ tư bản.Chính vì vậy cho nên các nhà lý luận của giai cấp tư bản mới có thể đưa ra các học thuyết ít nhiều còn mang tính khoa học.
Tuy nhiên,trong giai đoạn sau của CNTB,sự phát triển của CNTB đã bắt đầu bộc lộ ngày càng rõ nét những mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.Đã bắt đầu có những xung đột ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa hai giai cấp được thể hiện qua các hiện tượng xã hội như khủng hoảng,thất nghiệp,sự phá sản của sản xuất nhỏ hay quá trình bần cùng hoá giai cấp vô sản vv...Các phong trào đấu tranh của công nhân bùng nổ ngày càng nhiều.Đặc biệt là từ sau khi xuất hiện CN M-L ,với vai trò như một lý luận chỉ đường cho giai cấp công nhân,chỉ ra sứ mệnh lịch sử của họ trong việc xoá bỏ và thay thế PTSX TBCN bằng một PTSX tiến bộ hơn,PTSX XHCN ,thì sức ép lên giai cấp tư sản ngày càng tăng.Chính vì vậy,trong giai đoạn này,các nhà lý luận của giai cấp tư bản đã ra sức xuyên tạc,bẻ cong những lú luận đúng đắn trước kia và đưa ra những lý luận sai lầm nhằm giải thích các hiện tượng xã hội kể trên với mục đích che dấu bản chất bóc lột của CNTB.Do đó
các học thuyết hình thành trong thời kỳ này nói chung và các lý luận về lợi nhuận nói riêng không còn mang tính khoa học nữa.Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số trường phái như vậy,trên cơ sở phân tích các lý luận về lợi nhuận để thấy rõ bản chất phi khoa học của các học thuyết này.
3/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Hậu Cổ Điển:
Trường phái Hậu Cổ Điển(HCĐ),mặc dù xuất hiện ngay sau trường phái TSCĐ nhưng các nhà lý luận của trường phái HCĐ lại hoàn toàn xa rời những lý luận cuả trường phái TSCĐ.Họ rời bỏ phương pháp trừu tượng hoá khoa học,không đi sâu vào phân tích bản chất của sự vật,hiện tượng mà chỉ xem xét hời hợt bên ngoài.Đặc biệt là họ đã áp dụng phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh tế,"coi KTCT là khoa học nghiên cứu về đạo đức xã hội".Hơn nữa,họ lại xa rời lý thuyết về giá trị lao động và đưa ra các lý luận về giá trị ích lợi hay giá trị các nhân tố sản xuất vv...Ta có thể thấy được điều đó qua các học thuyết của một số đại diện tiêu biểu cho trường phái này như R.Malthus và J.B.Say.
Đối với Malthus,trên cơ sở quan điểm sai lầm của A.Smith về giá trị,ông đã phát triển lên và cho rằng:"Giá trị của hàng hoá do lao động mà hàng hoá đó có thể mua được bằng những chi phí để sản xuất ra nó.Các chi phí này bao gồm chi phí về lao động sống,chi phí về lao động vật hoá cộng với lợi nhuận tư bản ứng trước".Như vậy là dựa trên quan điểm sai lầm về giá trị,Malthus đã đưa ra quan niệm sai lầm về lợi nhuận,coi lợi nhuận"là khoản dôi ra ngoài chi phí về lao động sống và lao động vật hoá".Với quan niệm này về lợi nhuận
vô hình chung,Malthus đã dẫn tới một cách giải thích sai lầm về nguồn gốc của lợi nhuận,cho rằng không chỉ sức lao động của người công nhân mà cả các công cụ lao động và đối tượng lao động cũng tham gia vào quá trình hình thành lợi nhuận.
Còn theo J.B.Say,người ủng hộ quan điểm giá trị ích lợi,thì cho rằng ích lợi của vật quyết định giá trị của nó,ích lợi càng cao thì giá trị của vật càng lớn,coi ích lợi là thước đo của giá trị.Dựa trên cơ sở thuyết giá trị ích lợi,Say đã đưa ra lý thuyết về ba nhân tố sản xuất.Ông cho rằng có ba nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất là lao động,đất đai và tư bản,mỗi nhân tố có ích lợi riêng và tạo ra những phần giá trị tương ứng.Do vậy,Say đã coi lợi nhuận như là phần giá trị của hàng hoá được tạo ra do ích lợi của tư bản,có nghĩa là ,coi lợi nhuận như là hiệu suất đầu tư của tư bản.Luận điểm này tất yếu dẫn tới việc cho rằng những máy móc tham gia vào quá trình sản xuất cũng tham gia vào quá trình tạo ra giá trị chứ không phải chỉ riêng lao động của công nhân mới tạo ra giá trị.Hơn nữa,Say còn cho rằng lợi nhuận là tiền lương của nhà quản lý kinh doanh,là phần thưởng cho những nhà đầu tư dám mạo hiểm.Ta có thể thấy rằng đó hoàn toàn là những quan điểm sai lầm.
4/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Cổ Điển Mới:
Xuất hiện trong giai đoạn bắt đầu sự chuyển đổi từ CNTB tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền,đặc biệt là được hình thành sau khi CN Mác ra đời,trường phái Cổ Điển Mới (CĐM) ra đời nhằm mục đích biện hộ cho CNTB trước những hiện tượng kinh tế mới phát sinh như tình trạng độc quyền và những hậu quả về mặt xã hội của nó vv...Ngoài ra nó còn có một nhiệm vụ khác là phê phán CN Mác,phủ nhận những lý luận khoa học của Mác về bản chất bóc lột của giai cấp tư bản,sự diệt vong tất yếu của CNTB và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vv...nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.ủng hộ tư tưởng tự do cạnh tranh,áp dụng phép phân tích vi mô nền kinh tế,kế thừa và tiếp tục phát triển lý thuyết giá trị tâm lý chủ quan là các đặc điểm nổi bật của trường phái CĐM.Dựa trên các đặc điểm cơ bản đó thì mỗi đại biểu của trường phái CĐM lại có những quan điểm khác nhau về lợi nhuận.
Với J.B.Clark,ông đã phát triển lý thuyết 'ích lợi giới hạn' lên thành lý thuyết 'năng suất giới hạn' và từ đó đưa ra lý thuyết 'năng lực chịu trách nhiệm' của các nhân tố sản xuất.Ông cho rằng thu nhập là năng lực chịu trách của các nhân tố sản xuất,cụ thể là,tiền lương là năng lực chịu trách nhiệm của lao động,địa tô là năng lực chịu trách nhiệm của đất đai còn lợi nhuận là năng lực chịu trách nhiệm của tư bản.Nói như vậy có nghĩa là lợi nhuận,thực chất,được coi là tiền lương trả cho nhà sản xuất-kinh doanh.Hoặc như Alfred Marshall thì lại coi lợi nhuận như là khoản tiền thù lao thuần túy cho năng khiếu quản lý kinh doanh,sử dụng tư bản và năng lực tổ chức hoạt động sản xuất.
Nhìn chung,các quan điểm về lợi nhuận của một số trường phái phi Mácxit kể trên,mặc dù có một số trường phái có những quan điểm tiến bộ,đặc biệt là các trường phái trước Mác, nhưng chúng vẫn chưa thể có được tính chính xác và khoa học một cách trọn vẹn.Sở dĩ như vậy là vì các quan điểm này được xây dựng trên cơ sở những luận điểm,hoặc là chưa đúng đắn,chính xác hoặc là sai lầm hoàn toàn,về giá trị.Vì vậy mà ngay cả những nhà tư tưởng tiến bộ nhất của trường phái TSCĐ cũng chưa thể xác định được đầy đủ và chính xác về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.Chỉ đến khi CN Mác xuất hiện,trên cơ sở kế thừa và phát triển tiếp tục những quan điểm đúng đắn của các trường phái trước đó,mới có thể giải thích một cách khoa học,chính xác và đầy đủ về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
ii/Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác:
Như trên đã phân tích,chỉ đến khi CN Mác xuất hiện thì nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận mới được làm sáng tỏ thông qua các học thuyết kinh tế của CN Mác.Dựa trên việc kế thừa những tư tưởng tiến bộ,khoa học của các trường phái lý luận trước đó,Mác đã sáng tạo ra học thuyết của mình mà trong đó,nổi bật và có vai trò như "một hòn đá tảng" trong toàn bộ học thuyết chính là những lý luận về giá trị thặng dư(GTTD).Dựa cơ sở đó,Mác đã phân tích và làm sáng tỏ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận cũng như đã giải thích được sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận bình quân và bản chất của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần.Ngoài ra,Mác cũng đã thấy được và phân tích một cách khoa học sự phân chia của lợi nhuận thành các hình thức khác nhau như lợi nhuận công nghiệp(LNCN),lợi nhuận thương nghiệp(LNTN),lợi tức cho vay(LTCV),lợi nhuận ngân hàng(LNNH),địa tô(ĐT) và cuối cùng là lợi nhuận độc quyền(LNĐQ).
Sau đây,chúng ta sẽ lần lượt xem xét các vấn đề trên trong học thuyết của Mác.
1/Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Để thấy được sự hình thành của lợi nhuận,trước tiên ta hãy xem xét về khái niệm mà mác gọi là chi phí sản xuất(CPSX).
Như chúng ta đã biết,giá trị của hàng hoá được cấu thành nên từ chi phí cho lao động trong quá khứ,chi phí cho lao động sống và phần giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất.Tuy nhiên,đối với nhà tư bản thì họ không quan tâm tới sự cấu thành của giá trị hàng hoá mà họ chỉ quan tâm tới việc phải bỏ ra bao nhiêu tư bản và sẽ thu lại được cái gì.
Để tiến hành sản xuất ra một sản phẩm thì trên thực tế nhà tư bản sẽ phải ứng tư bản ra để mua các tư liệu sản xuất(TLSX),được ký hiệu là (c), và để thuê lao động,được ký hiệu là (v).Toàn bộ phần tư bản này được gọi là tư bản ứng trước(TBƯT).Tuy nhiên,theo Mác thì không phải toàn bộ phần TBƯT này đều được chuyển dịch hết vào giá trị của hàng hoá mà chỉ có một phần lượng tư bản được dùng để ứng trước cho TLSX và toàn bộ lượng tư bản được dùng để ứng trước cho lao động là cấu tạo trực tiếp nên giá trị của hàng hoá. Phần giá trị này được Mác gọi là CPSX ,được ký hiệu là (k) và được biểu diễn dưới công thức:
k=c+v
Với sự hình thành khái niệm CPSX,nhà tư bản đã bước đầu che dấu được sự hình thành của giá trị thặng dư(GTTD) và tạo điều kiện để hình thành nên khái niệm lợi nhuận.Có thể thấy rõ được điều này qua việc nghiên cứu những phân tích của Mác về công thức của CFSX trên.
Trước tiên,ta hãy xen lại định nghĩa của Mác về GTTD.Theo Mác thì "giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không".Như vậy,theo Mác thì GTTD chính là phần lao động không được trả công của người công nhân mà nhà tư bản đã chiếm đoạt,điều đó có nghĩa là GTTD (hay chính là phần giá trị mới) dược tạo ra bởi lao động của người công nhân.Nói cách khác,chính lao động của người công nhân và chỉ duy nhất một mình nó là tạo ra GTTD.Lý luận về GTTD của Mác đã vạch trần bản chất bóc lột của CNTB,chỉ rõ nguồn gốc sự giàu có của CNTB nói chung và của nhà tư bản nói riêng chính là nhờ chiếm đoạt GTTD.
Tuy nhiên,với sự hình thành khái niệm CPSX (k=c+v) thì nguồn gốc và bản chất bóc lột của GTTD đã bị che lấp.ở đây,dường như phần giá trị mới được tạo ra là do tác động của toàn bộ lượng tư bản mà nhà tư bản đã ứng ra.Có nghĩa là,cả bộ phận tư bản bỏ vào lao động (v) và bộ phận tư bản bỏ vào TLSX (c) đều có vai trò như nhau trong việc tạo ra phần giá trị mới,như Mác đã viết:"Bộ phận tư bản bỏ vào lao động,khác với bộ phận tư bản bỏ vào TLSX,vào bông hay than chẳng hạn,ở chỗ là nó được dùng để trả tiền cho một yếu tố sản xuất khác về mặt vật chất,chứ hoàn toàn không phải là vì,do chức năng của nó,nó đã đóng một vai trò khác trong quá trình sáng tạo ra giá trị của hàng hoá và do đó trong quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị".Như vậy là,với sự hình thành khái niệm CPSX ,vô hình chung đã xoá đi sự khác nhau giữa tư bản bất biến(TBBB) và tư bản khả biến(TBKB) trong chức năng sáng tạo ra giá trị.
Như vậy,phần giá trị mới,được tạo ra trong quá trình sản xuất,nếu coi là phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân tạo ra thì được gọi là GTTD còn nếu,vẫn với lượng giá trị đó,mà được đem so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước thì sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận.Vậy,xét cho cùng,lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái chuyển hoá của GTTD," một hình thái mà PTSX TBCN tất nhiên phải đẻ ra" nhằm che đậy bản chất bóc lột của nó.
Nếu ký hiệu lợi nhuận là (p) thì công thức giá trị của hàng hoá trước là : gt=c+v+m nay sẽ chuyển thành :gt=k+p,với k (=c+v) chính là CPSX để tạo ra hàng hoá.Từ công thức này,ta có thể thấy rằng CPSX của một hàng hoá luôn nhỏ hơn giá trị thực tế của hàng hoá đó một lượng đúng bằng phần GTTD được tạo ra.Như vậy,nếu hàng hoá được bán đúng với giá trị của nó thì nhà tư bản sẽ thu về được một khoản lợi nhuận đúng bằng phần GTTD (m) chứa đựng trong hàng hoá đó.Tuy nhiên,nhà tư bản cũng vẫn có thể bán một hàng hoá nhất định nào đó với giá cả nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá trị thực tế của nó.Chừng nào mà giá bán vẫn còn cao hơn CPSX để sản xuất ra hàng hoá đó thì nhà tư bản còn thu được lợi nhuận.Chính vì vậy đã làm cho lợi nhuận dường như là kết quả của hoạt động kinh doanh, do tài nghệ kinh doanh của nhà tư bản tạo ra.Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và tồn tại của một số quan điểm sai lầm về lợi nhuận mà ta đã nghiên cứu ở phần trên.
2/Tỷ suất lợi nhuận,tỷ suất lợi nhuận bình quân,giá cả sản xuất và quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm dần :
Như trên chúng ta đã phân tích,lợi nhuận thực chất chỉ là một hình thức biến tướng của GTTD.Tuy nhiên,đối với nhà tư bản thì họ không quan tâm,không cần biết đến điều đó.Khi tiến hành một hoạt động sản xuất hàng hoá,mục tiêu của nhà tư bản không phải là hàng hoá được sản xuất ra cũng không phải là giá trị sử dụng của hàng hoá đó.Cái mà nhà tư bản cần là cái phần giá trị mới thừa ra so với toàn bộ phần tư bản đã tiêu dùng,nó được nhà tư bản gọi dưới cái tên là lợi nhuận.Mặc dù cái đích cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất-kinh doanh của nhà tư bản là lợi nhuận tuy nhiên nhà tư bản lại chẳng quan tâm xem phần lợi nhuận đó được tạo ra từ đâu,từ TBBB hay từ TBKB vv...Đối với nhà tư bản,lợi nhuận được tạo nên từ toàn bộ phần tư bản đã tiêu dùng,đúng như Mác đã viết :"...nhà tư bản trông mong là tất cả các bộ phận của tư bản mà hắn ứng ra đều sẽ đem lại lợi nhuận như nhau cả ".Từ quan niệm trên đã nảy sinh khái niệm về tỷ suất lợi nhuận.Theo định nghĩa của Mác thì "Tỷ suất lợi nhuận (p') là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước".Ta có : p'=(m/(c+v))*100%.
Với sự xuất hiện khái niệm tỷ suất lợi nhuận,ta có thể thấy rằng,một lần nữa bản chất bóc lột của CNTB lạiđược che dấu đi.Nếu như tỷ suất GTTD (m') đã phản ánh được sự bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê,là thước đo trình độ bóc lột của giai cấp tư sản thì tỷ suất lợi nhuận,đơn thuần,chỉ phản ánh mức lãi của việc đầu tư tư bản,nó chỉ cho nhà tư bản biết nên đầu tư vào đâu thì có lợi hơn.
Trên đây,chúng ta đã nghiên cứu,xem xét về sự hình thành của tỷ suất lợi nhuận cũng như vai trò của nó trong phản ánh mức lãi của hoạt động đầu tư.Tuy nhiên,tỷ suất lợi nhuận chỉ phản ánh trong phạm vi một nghành sản xuất,mỗi nghành có một tỷ suất lợi nhuận riêng.Còn trong nền kinh tế TBCN với sự đa dạng về nghành nghề thì tất yếu dẫn tới sự hình thành khái niệm tỷ suất lợi nhuận bình quân.Sở dĩ hình thành khái niệm này là do trong nền kinh tế TBCN luôn tồn tại sự cạnh tranh,đó là hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ sở hữu khác nhauvề TLSX,nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.Trong nền kinh tế TBCN,do chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN cho nên sự tồn tại tình trạng cạnh tranh là tất yếu dưới hai dạng là cạnh tranh trong nội bộ nghành và cạnh tranh giữa các nghành.Mỗi hình thức cạnh tranh sẽ đem lại một kết quả khác nhau.Với cạnh tranh
File đính kèm:
- KC (166).doc