I. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
1. Các khái niệm liên quan
1.1 Lực lượng sản xuất (LLSX)
LLSX là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định ở một thời kỳ nhất định.
LLSX biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
15 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học ngoại thương
Tiểu luận triết học:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và vận dụng vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
Người hướng dẫn: TS Đoàn Văn Khái
Người thực hiện : Hồ Thị Thuỳ Trang
Học viên cao học 12
KTTG & QHKTQT
Hà Nội – 2005
Mục lục
Lời nói đầu
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Các khái niệm liên quan
Lực lượng sản xuất (LLSX)
LLSX là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định ở một thời kỳ nhất định.
LLSX biểu hiện mối quan hệ tác động giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
LLSX bao gồm TLSX và người lao động với tri thức và phương pháp sán xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Ngày nay, khkoa học đã trở thành LLSX trực tiếp. Những thành tựu của khoa học được vật chất hoá trong TLSX, hoặc thông qua kỹ năng của người lao động có hiệu suất cao.
Trong các yếu tố hợp thành LLSX, người lao động là chủ thể, bao giờ cũng là LLSX cơ bản, quyết định nhất của xã hội.
Quan hệ sản xuất (QHSX)
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội.
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên, tác động vào giới tự nhiên, mà còn có quan hệ với nhau, tác động lẫn nhau. Hơn nữa chỉ có trong quan hệ tác động lẫn nhau thì con người mới có sự tác động vào tự nhiên và mới có sản xuất.
QHSX là hình thức xã hội của sản xuất, biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu sau:
Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu Tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội ( quan hệ sở hữu)
Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động cho nhau (quan hệ tổ chức quản lý)
Quan hệ giữa người với người trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội ( quan hệ phân phối lưu thông)
Các mặt nói trên của QHSX có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định.
Tuy vậy, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu.
QHSX trong tính hiện thực của nó không phải là những quan hệ ý chí, pháp lý mà là quan hệ kinh tế được biểu hiện thành các phạm trù, quy luật kinh tế.
QHSX mang tính khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Sự thay đổi của các kiều quan hệ sản xuất phụ thuộc vào trình độ phát triển của LLSX xã hội.
Phương thức sản xuất (PTSX)
PTSX là phương thức khai thác những của cải vật chất bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển xã hội.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữaLLSX với QHSX tạo thành PTSX. Hay nói cách khác LLSX và QHSX không phải là hai bộ phận mà là hai loại quan hệ trong một thực thể thống nhất cấu thành PTSX.
Về mặt nhận thức luận, đó là hai góc độ tiếp cận để xem xét một thực thể. Tức là nếu phân tích PTSX theo quan hệ giữa con người với giới tự nhiên thì đó là phân tích LLSX, nếu phân tích PTSX ấy theo quan hệ giữa người với người thì đó là phân tích QHSX.
Nội dung của quy luật
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
LLSX là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, là nội dung vật chất còn QHSX là hình thức xã hội của nền sản xuất vật chất, nội dung quyết định hình thức.
Sự vận động, phát triển của LLSX sẽ đòi hỏi, thúc đẩy QHSX phát triển. Do LLSX là yếu tố động nhất, cách mạng nhất nên thường phát triển nhanh còn QHSX thường đi sau một bước. Khi LLSX phát triển mà QHSX chưa theo kịp thì sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Trong xã hội có giai cấp, mâu thuẫn này được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn này tất yếu dẫn đến đấu tranh giai cấp, nổ ra cách mạng xã hội, thay thế QHSX cũ, lạc hậu bằng QHSX mới tiến bộ hơn, ra đời PTSX cao hơn trong lịch sử. Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các PTSX: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và đang quá độ lên PTSX cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH.
Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX.
Trong sự thống nhất biện chứng giữa LLSX với QHSX, LLSX giữ vai trò quyết định đối với QHSX. ãH phải thay đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Tuy nhiên QHSX không phải hoàn toàn thụ động mà có tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì nó sẽ mở đường cho LLSX phát triển, ngược lại nó kìm hãm LLSX, mặc dù chỉ là sự kìm hãm tạm thời.
QHSX có thể tác động đến LLSX vì nó quy định mục đích của sản xuất, ảnh hưởng đến lợi ích và thái độ của người lao động sản xuất, yếu tố cơ bản nhất của xã hội.
Tóm lại, LLSX và QHSX nằm trong thể thống nhất của hai mặt đối lập trong PTSX xã hội nhất định. Chúng quy định, chế ước, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau phát triển, trong đó LLSX luôn luôn giữ vai trò quyết định, QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Sự thống nhất mâu thuẫn này không ngừng tự sản sinh và tự giải quyết, là động lực vận động nội tại của PTSX, cơ sở phát triển của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
Trong công cuộc Đổi mới kinh tế hiện nay ở nước ta, việc nắm vững và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đang là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Kinh nghiệm đã qua trên thế giới hay ở nước ta đều cho thấy mỗi khi coi nhẹ điều này thì phải trả giá như thế nào. Trước Đổi mới, chúng ta đã xây dựng QHSX mới bất chấp tình trạng thấp kém của LLSX. Sự vượt trước này của QHSX trong khi trình độ của LLSX chưa cho phép đã kìm hãm sự phát triển của sản xuất xã hội. Đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội.
Đến Đại hội lần thứ VI của Đảng, với tư duy mới chúng ta nhận ra rằng QHSX là vật cản của LLSX không chỉ trường hợp QHSX đi sau mà còn cả trong trường hợp vượt lên trước, tách rời LLSX. Nguyên lý QHSX phải phù hợp với trình độ của LLSX bao giờ cũng đúng trên mỗi bước phát triển. Chính vì vậy từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, chúng ta luôn cố gắng thiết lập sự đồng bộ giữa các yếu tố trong QHSX, trong LLSX và giữa QHSX với LLSX. Đại hội Đảng VII đã chỉ rõ: “ ..... phù hợp vưói sự phát triển của LLSX, thiết lập từng bước QHSX XHCN từ thấp đến cao....”
Trình độ của LLS X trong thời kỳ Đổi mới hiện nay ở nước ta
Sau gần 20 năm Đổi mới, với tư duy kinh tế mới, với quyết tâm cao và với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế, LLSX của nước ta dã phát triển một cách mạnh mẽ từ tư liệu sản xuất đến con người và khoa học công nghệ. Tuy nhiên, so với trình độ phát triển chung của LLSX trên thế giới thì LLSX của chúng ta còn có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, trình độ của LLSX của chúng ta hiện nay so với mặt bằng chung thế giới còn thấp, chúng ta còn đi sau họ hàng thập kỷ. Điều này được thể hiện rõ trên tất cả các mặt của LLSX:
Về tư liệu sản xuất: Trước đây chúng ta nói chúng ta có “rừng vàng biển bạc, đất phì nhiêu”, nhưng hiện nay những nguồn lực này đang ngày càng cạn dần do chúng ta khai thác không có quy hoạch. Vì thế đối tượng lao động của ngành công nghiệp khai thác rất ít ỏi. Còn đối tượng lao động là nguyên liệu, đối tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến thì không được khai thác có hiệu quả. Cảnh những xe mía nguyên liệu của nông dân xếp hàng dài trước các nhà máy đường chờ hàng hàng tuần hay hàng hà sa cây cà phê phải chặt trong mùa thu hoạch là những cảnh thường thấy trong thời gian gần đây.
Tư liệu lao động từ công cụ lao động, cái được coi là “ xương cốt và bắp thịt” của nền sản xuất đến tư liệu lao động với tư cách là phương tiện để bảo quản những đối tượng lao động mà được gọi chung là “hệ thống bình chứa của nền sản xuất” và tư liệu lao động với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất như đường sá, bến cảng, sân bay, phương tiện giao thông vận tải, điện, nước, thuỷ lợi, bưu điện, thông tin liên lạc .... nói chung đều lạc hậu so với các nước NIC 20-30 năm và 50 năm đối với các nước phát triển. Chính vì công cụ lao động phần lớn còn lạc hậu mà lao động thủ công vẫn còn phổ biến ở Việt Nam nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, và “ hệ thống bình chứa”, kết cấu hạ tầng sản xuất của nền kinh tế quốc dân còn thấp giá trị gia tăng của nông sản phẩm chúng ta còn thấp.
Về lực lượng lao động, yếu tố cơ bản nhất của LLSX cũng còn có rất nhiều vấn đề cần phải bàn. Người lao động Việt Nam được đánh giá là dồi dào, cần cù, chịu khó và thông minh nhưng đáng tiếc trình độ lao động của chúng ta nhìn chung còn thấp. Lực lượng lao động đa số là thiếu kỹ năng, chưa được đào tạo chuyên sâu về nghề nghiệp lại thiếu tác phong làm việc công nghiệp nên giá nhân công của chúng ta rẻ là một điều dễ hiểu. Chúng ta có nguồn chất xám rất lớn nhưng nguồn lực vô giá này lại chưa được biến thành sức mạnh vật chất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Về khoa học công nghệ, ngày nay khoa học công nghệ cũng đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học công nghệ được vật chất hoá trong tư liệu sản xuất hoặc thông qua kỹ năng của người lao động có hiệu suất cao.
Đến nay khoa học công nghệ nước ta có nhiều bước phát triển mới, thu được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy LLSX phát triển, vào quá trình phát triển của kinh tế xã hội. Tuy nhiên so với yêu cầu do Đảng và Nhà nước đặt ra, so với sự phát triển như vũ bảo của Khoa học công nghệ trên thế giới thì khoa học công nghệ của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự trở thành yếu tố động lực cho tăng trưởng kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ chư a được giải phóng nên trình độ khoa học công nghệ Việt Nam vẫn còn ở tốp sau của thế giới.
Thứ hai, trình độ LLSX của nước ta hiện nay không chỉ thấp mà còn phát triển ở nhiều mức độ khác nhau, không đồng đều giữa các vùng, các ngành. Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ là phổ biến, lại trải qua chiến tranh lâu dài. Do đó, sự phát triển của LLSX rất không đồng đều nhau, giữa các vùng, ngành kinh tế của đất nước, giữa miền xuôi với miền ngược, giữa thành thị với nông thôn.
Hiện nay, trình độ LLSX trên cả ba mặt là tư liệu sản xuất, người lao động và khoa học công nghệ giữa các vùng kinh tế của đất nước như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng với các vùng kinh tế khác của đất nước đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi còn có sự chênh lệch rõ rệt.
Sự chênh lệch này không chỉ tồn tại giữa các vùng, miền và giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Nếu như cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành bưu chính viễn thông, ngân hàng, hàng không đã hiện đại hoá gần hết các khâu, các công đoạn thì trong các ngành thuộc khu vực kinh tế nông nghiệp vẫn chủ yếu là thủ công.
Nói tóm lại LLSX của chúng ta mặc dù đã có những bước tiến mới nhưng trình độ vẫn còn thấp và không đồng đều giữa các ngành, các vùng.
Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp đổi mới hiện nay của nước ta.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh tính chân lý của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Vậy vận dụng quy luật này như thế nào với những đặc điểm của LLSX của nước ta như đã phân tích ở trên để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của LLSX nhằm tạo cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp đổi mới hiện nay của nước ta. Đây là một vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn rất lớn. Với kiến thức và thời gian có hạn trong khuôn khổ của tiểu luận này người viết chỉ xin mạnh dạn nêu những hiểu biết của mình về sự vận dụng quy luật này vào sự nghiệp Đổi mới hiện nay của nước ta.
Đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Sở hữu là một nội dung của QHSX. QHSX giữ vai trò quyết định đối với hai nội dung còn lại của QHSX. Sự vận động của sở hữu về hình thức, tính chất và phạm vi, mức độ là do đòi hỏi khách quan của sự phát triển của LLSX.
Hiện nay nước ta đang trong thời ký chuyển đổi, LLSX do đó, như đã phân tích ở trên, phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau. Chính vì thế đòi hỏi phải có các hình thức sở hữu tương ứng, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở từng vùng, miền và từng ngành kinh tế khác nhau.
Hiện nay trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, đó là: sở hữu công cộng, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi loại hình sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau và vì thế trong nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu các thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân....
Thực hiện nhất quán đường lối đa dạng hoá hình thức sở hữu đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của LLSX, đưa nền kinh tế nước ta từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và hiện nay đang bước vào thời kỳđẩy mạnh CNH-HĐH.
Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế , kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Trong thời kỳ Đổi mới hiện nay ở nước ta, LLSX tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó như đã nêu trên, chế độ sở hữu về TLSX sẽ có nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần.
Theo tinh thần Nghị quyết IV của Đảng hiện nay nước ta đang duy trì sáu thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Việc chuyển đổi từ nền kinh tế với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể trước đây sang nền kinh tế nhiều thành phần như hiện nay phù hợp với thực trạng thấp kém và không đồng đều của LLSX trong thời kỳ quá độ. Sự phù hợp này có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mặt khác cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển LLSX.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân
Tương ứng với trình độ LLSX còn thấp kém lại không đồng đều là nền kinh tế nhiều thành phân có nhiều hình thức sở hữu và kéo theo nó là tính tất yếu của đa dạng hoá các hình thức phân phối thu nhập cá nhân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định và Đại hội Đảng lần thứ IX cũng tiếp tục khẳng định: “ thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Sự biến đổi lịch sử của LLSX và QHSX kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối. Đồng thời quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu và do đó đối với LLSX. Phân phối thu nhập cá nhân(phân phối hiểu theo nghĩa hẹp) đúng đắn có vai trò đảm bảo tái sản xuất sức lao động, kích thích sản xuất phát triển.
Trước đây do chỉ áp dụng một hình thức phân phối duy nhất đã làm thui chột động lực phát triển của nền sản xuất do cào bằng mọi lợi ích cá nhân, làm người lao động không có động lực phát triển. Đây là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng khủng hoảng nền kinh tế Việt Nam những năm 1980.
Việc thực hiện nhiều hình thức phân phối sẽ kích thích lực lượng lao động trong mọi thành phần kinh tế góp phần đẩy mạnh sự phát triển của LLSX.
Kết luận
Quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là quy luật chung cho mọi PTSX. Trong nền kinh tế chưa thật sự phát triển cao, LLSX luôn tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau, việc đa dạng hoá các hình thức sở hữư, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập là sự “cởi trói” cho LLSX phát triển, là sự vận dụng sáng tạo quy luật chung này vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hiện nay việc vận dụng này đang phát huy tốt vai trò của nó, góp phần vào đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP hơn 7% hiện nay của nước ta, góp phần vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nước ta, ổn định chính trị xã hội và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Tuy nhiên LLSX là một yếu tố hết sức động, do đó đòi hỏi chúng ta phải luôn nắm vững quy luật và bám sát thực tiễn để phát huy tác dụng của quy luật.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.
Giáo trình triết học – Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học- Tập I, III, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2003.
Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin – Dùng cho khối ngành kinh tế, quản trị kinh doanh trong các trường đại học, cao đẳng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
Thượng tá, TS học viện chính trị quân sự Hoàng Minh Thảo: “ Một số vấn đề về sở hữu tư liệu sản xuất sau gần 20 năm đổi mới ở Việt Nam”, Tạp chí cộng sản số 44, năm 2003.
Đại tá, TS kinh tế học viện chính trị quân sự Nguyễn Minh Khải: “ Bảo đảm định hướng nền kinh tế đa dạng hoá các hinh thức công hữu”, Tạp chí cộng sản số 48, năm 2003.
GS Lê Xuân Tùng: “ Quan hệ sản xuất XHCN không chỉ là phương tiện để phát triển LLSX”, Tạp chí cộng sản số 4, năm 2003.
TS Hồ Ngọc Luật: “ Gắn khoa học công nghệ với sản xuất kinh doanh thành động lực thúc đẩy CNH-HĐH đất nước”, Tạp chí cộng sản số 84, năm 2005.
Bài phát biểu của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh khai mạc hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX: “ Đánh giá đúng thực trạng, kiến nghị các giải pháp thực hiện thắng lợi toàn diện nghị quyết đại hội IX của Đảng”.
PGS.TS Đặng Hữu Toàn “ Quá độ lên CNXH theo con đường “Phát triển rút ngắn ở Việt Nam” – Tạp chí cộng sản số
File đính kèm:
- Tieu luan triet hoc.doc