Trong nền kinh tế thị trường phân phối thu nhập giữ một vai trò hễt sức quan trọng. Nó là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Phân phối thu nhập nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ với thị trường các yếu tố sản xuất làm cho sự vận động của cơ chế thị trường diễn ra thông suốt.
Một xã hội muốn ổn định và phát triển thì cần đảm bảo được những lợi ích của cá nhân trong xã hội, trong đó phân phối đảm nhận vai trò phân chia lợ ích cho từng cá nhân. Giải quyết vấn đề phân phối thu nhập có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.Thực tiễn ở Việt Nam đã chỉ rõ, trong quá trình đi tới ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, trước hết chúng ta phải cải cách lưu thông, phân phối. Nhờ tháo gỡ những ách tắc trong lĩnh vực này mà nền kinh tế nướ ta đã và đang dần thoát khỏi tìng trạng khủng hoảng, lạm phát từng bước có sự tăng trưởng phát triển.Tuy nhiên khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN thì hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương, lợi nhuận, lợi tức . đã nảy sinh, đòi hỏi phải có những cải cách thường xuyên, liên tục để phù hợp với những nguyên lý kinh tế kinh tế thị trường cũng như những đòi hỏi cấp thiết của xã hội đang đặt ra. Vì vậy việc nghiên cứu quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam là hết sức cấp thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
25 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 512 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tiểu luận Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay – thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học kinh tế quốc dân
---------------------------**-------------------------------
Đề án kinh tế chính trị
Đề tài: Quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay – Thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới.
Giáo viên hướng dẫn: TS. Trần Việt Tiến
Sinhviên thực hiện: Đặng Hồng Minh
Lớp: Quản trị Nhân lực A
Khoá: 44
Năm học: 2003-2004
Hà Nội 2-2004
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế thị trường phân phối thu nhập giữ một vai trò hễt sức quan trọng. Nó là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Phân phối thu nhập nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ với thị trường các yếu tố sản xuất làm cho sự vận động của cơ chế thị trường diễn ra thông suốt.
Một xã hội muốn ổn định và phát triển thì cần đảm bảo được những lợi ích của cá nhân trong xã hội, trong đó phân phối đảm nhận vai trò phân chia lợ ích cho từng cá nhân. Giải quyết vấn đề phân phối thu nhập có ý nghĩa to lớn đối với sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.Thực tiễn ở Việt Nam đã chỉ rõ, trong quá trình đi tới ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, trước hết chúng ta phải cải cách lưu thông, phân phối. Nhờ tháo gỡ những ách tắc trong lĩnh vực này mà nền kinh tế nướ ta đã và đang dần thoát khỏi tìng trạng khủng hoảng, lạm phát từng bước có sự tăng trưởng phát triển.Tuy nhiên khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN thì hàng loạt các vấn đề thuộc lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương, lợi nhuận, lợi tức ... đã nảy sinh, đòi hỏi phải có những cải cách thường xuyên, liên tục để phù hợp với những nguyên lý kinh tế kinh tế thị trường cũng như những đòi hỏi cấp thiết của xã hội đang đặt ra. Vì vậy việc nghiên cứu quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường và vận dụng vào Việt Nam là hết sức cấp thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Hơn thế nữa, trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ ở nớc ta, do nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế vận động trong cơ chế thị trường nên cũng có nhiều lợi ích kinh tế khác nhau và tất yếu cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế. Việc phát hiện và giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thực hiện qua phân phối. Do đó việc nghiên cứu quan hệ phân phối được xem là chìa khoá để tháo gỡ cho các vấn đề liên quan đến việc phân chia các lợi ích trong xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu mang tính cấp bách đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của phân phối trong xã hội. Bài luận này với mục đích nghiên cứu quan hệ phân phối ở Việt Nam trong những năm vừa qua từ đó đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ ở nước ta ta thời gian tới, đã thể hiện rõ quan điểm của cá nhân em trong quá trình nghiên cứu quan hệ phân phối. Hy vọng rằng nó sẽ góp phần nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta nhằm đạt được mục tiêu ‘’ Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển,,.(1)
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Việt Tiến đã tận tình chỉ bảo để em hoàn thành đề án này. Hy vọng rằng những kiến thức này sẽ có ích cho cho đất nước trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
------------------------------------------
(1): Báo cáo chính trị của BCH.TW giữa nhiệm kỳ khoá VII
Chương 1
Lý luận về quan hệ phân phối và các hình thức phân phối ở nước ta hiện nay.
Tính tất yếu và bản chất của quan hệ phân phối.
Tính tất yếu của việc nghiên cứu quan hệ phân phối.
Qua quá trình phát triển của lịch sử đã chỉ ra rằng: phát triển sản xuất là cách thức duy nhất để tạo nên sự phồn thịnh bền vững của mỗi quốc gia, trong đó quá trình tái sản xuất được xem là trung tâm của mọi hoạt động. Quá trình tái sản xuất xã hội theo nghĩa rộng bao gồm bốn khâu: Sản xuất,phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó sản xuất đóng vai trò quyết định, các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất và cũng có tác động ngược trở lại với quá trình sản xuất, đồng thời cũng có tác động qua lại với nhau. Trong guồng máy đó phân phối là một khâu không thể thiếu được, nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, nó phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Hơn thế nữa quan hệ phân phối còn là một mặt của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Sản xuất tạo ra những vật phẩm thích hợp với nhu cầu, phân phối chia các sản phẩm (được quy ra giá trị) đó theo những quy luật xã hội, nối tiếp đó là quá trình trao đổi, phân phối các sản phẩm đẫ được phân phối theo những nhu cầu cá biệt. Quá trình được kết thúc khi sản phẩm được tiêu dùng và lúc đó sản phẩm thoát ra khỏi sự vận động mang tính kế thừa, trực tiếp trở thành đối tượng phục vụ cho nhu cầu cá biệt và thoả mãn nhu cầu đó trong quá trình tiêu dùng.
Như vậy phân phối được xem là yếu tố xuất phát từ xã hội còn trao đổi là yếu tố xuất phát từ cá nhân. Trong sản xuất con người được khách thể hoá, trong tiêu dùng đò vật được chủ thể hoá,trong phân phối dới hình thái những quy định phổ biến có tác dụng chi phối thì xã hội đảm nhiệm vai trò trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng.Phân phối xác định tỷ lệ về lượng sản phẩm dành cho cá nhân. Trao đổi xác định những sản phẩm trong đó cá nhân đòi hỏi phần phân phối dành cho mình. Mac đã nhận định rằng: ‘’ Một nền sản xuất nhất định quyết định một chế độ tiêu dùng nhất định, một chế độ trao đổi nhất định cũng ảnh hưởng đến phân phối.,, (1)Trên thực tế nếu ta chỉ nhận định rằng các khâu đó chỉ là các bước kế tiếp của nhau thì chưa phản ánh hết được bản chất bên trong mang tính khách quan của quá trình tái sản xuất. Sản xuất chụi ảnh hưởng bởi các quy luật của tự nhiên và phân phối cũng chụi ảnh hưởng bởi các quy luật ngẫu nhiên của xã hội, nên nó có ảnh hưởng ít nhiều thuận lợi đến sản xuất. Kế tiếp đó là quá trình trao đổi được xem như sự vận động xã hội có tính hình thức, còn hành vi cuối cùng là tiêu dùng, không những được coi là điểm kết thúc mà
------------------------------------
(1): C.Mac- Angghen VI tập, tập IV, NXB Sự Thật, Hà Nội 1983 trg 300-301
còn là mục đích cuối cùng. Như vậy phân phối được xem là công cụ đảm bảo cho các quá trình tái sản xuất hoạt động một cách trôi chảy, là động lực cho các thành viên trong nền kinh tế hoạt động một cách có hiệu quả.
Bản chất của quan hệ phân phối.
Tính chất của quan hệ phân phối do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Khi ta xét nó trong mối quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế đó và trong xã hội luôn tồn tại mối quan hệ qua lại giữa sản xuất và sản phẩm. Bản thân của hân phối là sản phẩm của nền sản xuất. Cơ cấu của phân phối hoàn toàn do cơ cấu của sản xuất quyết định.
Nếu ta chỉ hiểu rằng phân phối được biểu hiện là phân phối sản phẩm tiêu dùng cho cá nhân và các thành viên trong xã hội thì dường như phân phối đã cách xa với sản xuất và tựa hồ như là độc lập với sản xuất. Nhưng trước khi phân phối là phân phối sản phẩm thì nó đã xuất hiện ngay trong quá trình sản xuất ( đó là phân phối các nguồn lực đầu vào, các yếu tố của sản xuất) và đặc biệt nó còn tham gia trực tiếp trong việc phân phối các thành viên xã hội theo những loại sản xuất khác nhau. Như vậy phân phối sản phẩm chỉ là kết quả của sự phân phối trước đó, sự phân phối này đã bao hàm trong bản thân quá trình sản xuất và quyết định trong cơ cấu sản xuất. Xem xét sản xuất độc lập với phân phối đó thì rõ ràng là mơ hồ bởi thực chất phân phối đã nằm ngay trong quá trình sản xuất, còn phân phối sản phẩm được coi là bề nổi và là biểu hiện quan trọng nhất của phân phối. Và điều quan trọng, chúng ta phải thấy được nó không hoàn toàn tách rời với sản xuất.
Khi nói về cơ sở kinh tế của sự phân phối ở đây bao hàm ý nghĩa nói đến phân phối vật phẩm tiêu dùng cho các thành viên trong xã hội. Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng bao hàm cả sự phân phối cho sản xuất được xem là yếu tố của sản xuất và phân phối cho tiêu dùng được xem là kết quả của quá trình sản xuất, cho nên không phải toàn bộ sản phẩm mà xã hội tạo ra đều đực phân phối cho tiêu dùng cá nhân.Trước hết xã hội cần phải một phần để:
Bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí.
Mở rộng sản xuất.
Lập quỹ dự phòng.
Các khoản được trích trên được xem là một điều tất tếu về kinh tế, vì nếu không khôi phục và mở rộng sản xuất thì không thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Phần còn lại của tổng san phẩm xã hội thì để tiêu dùng. Nhưng trước khi tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân, còn phải trích một phần để:
Chi phí về quản lý hành chính và bảo vệ tổ quốc.
Chi cho các chương trình phúc lợi và cứu tế xã hội.
Cuối cùng phần vật phẩm tiêu dùng còn lại mới được trực tiếp phân phối cho tiêu dùng cá nhân của những người làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với chất lượng và số lượng của lao động cũng như số lượng vốn và tài sản mà họ đóng góp cho quá trình sản xuất.
1.2 Vai trò của quan hệ phân phối
Bàn về vai trò của phân phối trong nền sản xuất xã hội, F.Ăngghen cho rằng: ‘’ Sự phân phối chừng nào mà còn bị những lý do thuần tuý kinh tế chi phối, thì nó sẽ được điều tiết bởi lợi ích của sản xuất, rằng sản xuất sẽ được thuận lợi trên hết trong mọi phương thức phân phối mà mọi thành viên trong xã hội có thể phát triển, duy trì và thực hiện những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất.,, (1)
Ta thấy rằng mỗi một hình thái kinh tế xã hội đều bao gồm cả một hệ thống phức tạp các lợi ích mà trong đó lợi ích kinh tế đóng vai trò quyết định. Các lợi ích kinh tế được quy định bởi quan hệ sản xuất cua mỗi chế độ xã hội, trong đó quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất có vai trò chi phối hệ thống lợi ích kinh tế.
Bản chất của quan hệ sản xuất trong mối phương thức sản xuất được thể hiện qua hình thức sở hữu - đó không phải là quan hệ đơn thuần như mọi sự việc tồn tại trong xã hội mà nó là mối quan hệ phức tạp giữa con người với con người. Trong lịch sử không hề có một hình thái sở hữu nào mà không phản ánh những quan hệ trong sản xuất. ‘’Nơi nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì ở đó không tồn tại một nên sản xuất nào cả, do đó cũng không một xã hội nào cả.,, (2) Sở hữu - đó là những quan hệ về các điều kiện khách quan của sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải vật chất.
Sở hữu với tư cách là những quan hệ sản xuất, nó là cơ sở của các lợi ích. Hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi chế độ xã hội sẽ quy định hệ thống các lợi ích vốn có trong giai đoạn phát triển của nó. Trong hệ thống các lợi ích thì lợi ích kinh tế giữ vai trò chủ đạo. Lợi ích kinh tế được hiểu là những quan hệ kinh tế phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan về sự hoạt động của các gia cấp, những nhóm xã hội hoặc của từng người làm viêc riêng biệt do quan hệ sản xuất quyết định. Nói lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của những quan hệ kinh tế của mỗi xã hội nhất định nghĩa là lợi ích kinh tế là phạm trù kinh tế khách quan, nó chỉ xuất hiện khi giưa những người sản xuất có những mối quan hệ kinh tế khác nhau. Lợi ích kinh tế vừa mang tính chất khách quan vừa mang tính chủ quan. Nó mang màu sắc khách quan bởi vì nó luôn tồn tại và vận động. Thông qua sự vận động của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra mà quan hệ sản xuất ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. Còn nó mang màu sắc chủ quan là ở chỗ nó biến các tác động khách quan của các quy luật kinh tế thành các động cơ hành đọng kinh tế cử con người.
Lợi ích kinh tế có vai trò quan trọng là động lực mạnh mẽ đối với sự phát triển của xã hội. Những hình thức chủ yếu của lợi ích kinh tế trong hệ thống này luôn được đặc trưng bằng tính đại diện và tính thống nhất giữa ba nhóm lợi ích cơ bản.
----------------------------------------
(1): F.Angghen: ‘’chống Đuy- rinh,, NXB Sự Thật, Hà Nội 1960 tr 336
Đó là lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể lợi ích và lợi ích của bản thân người lao động. Sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác nhau trong xã hội sẽ dẫn đến sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập nhau giữa chúng. Trong đó lợi ích cá nhân trực tiếp là động lực mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của xã hội.
Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đã nói lên sự không đồng nhất về lợi ích kinh tế xã hội. Tuy nhiên đây là một xu thế tất yếu bởi điểm xuất phát đi lên là thấp trong khi đó yêu cầu hội nhập quốc tế là cách duy nhất để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá. Tương ứng với quá trình đó, trong nền kinh tế sẽ có nhiều quy luật vận động. Các quy luật kinh tế phát sinh trên cơ sở những quan hệ kinh tếa tương ứng và cũng trực tiếp quy định sự hình thành các lợi ích kinh tế của từng giai cấp từng tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên bên cạnh sự thống nhất giữa các lợi ích kinh tế cơ bản, không loại trừ những mâu thuẫn giữa chúng cũng như trong phạm vi mỗi nhóm lợi ích. Vì vậy cần phải phát hiện kịp thời các mâu thuẫn giữa các lợi ích và tìm cách giải quyết các mâu thuẫn đó.
Việc giải quyết các quan hệ về lợi ích kinh tế được thực hiện thông qua quan hệ phân phối. Khi phương thức sản xuất còn phù hợp (lợi ích của giai cấp thống trị còn phù hợp với lợi ích của xã hội) thì người ta còn bằng lòng với sự phân phối của xã hội. Nhưng khi nó thoái trào thì không còn điều kiện để tồn tại phân phối bởi phân phối khi đó đã không còn là công cụ đẩm bảo cho sự công bằng xã hội, bất công ngày càng sâu sắc đẫn đến đấu tranh xã hội và cuối cùng là một phương thức sản xuất mới ra đời. Như vây quan hệ phân phối mang tính lịch sử và thước đo mức độ tiến bộ của một hình thái xã hội. Nó chỉ có thể thay đổi khi quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối đó mất đi - đó là thông qua cách mạng xã hội.Bởi trong mỗi hình thái kinh tế thì quan hệ phân phối giải quyết những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế và đến khi nào nó không thể giải quyết được nữa thì tất yếu sẽ bị thay thế bằng hình thức phân phối khác cho phù hợp.
Các hình thức phân phối ở nước ta hiện nay.
Nền kinh tế Việt Nam từ sau đại hội VI của Đảng đã chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong một nền kinh tế còn chưa ổn định và xuất hiện nhiều vấn đề KT-XH đòi hỏi phải được lý giải sáng tỏ cả về lý luận và thực tế. Một trong những vấn đề quan trọng hiện nay là xác định các nguyên tắc phân ophois để làm sao vừa đảm bảo công bằng xã hội vừa tạo được động thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển vững bước đi lên CNXH. Từng bước thực hiện mục tiêu ‘’Lợi ích của mỗi người, của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.,, (1)
Trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay tồn tại ba nguyên tắc phân phối cơ bản: Phân phối theo lao động, phân phối theo tài sản hay vốn và những đống góp khác phân
--------------------------------------
(1): Văn kiện đại hội VII Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Sự Thật, Hà Nội 1991, tr 8
phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội.Trong đó lấy phân phối kết quả lao động và hiệu qủa kinh tế là chủ yếu.
Phân phối theo lao động – Một quy tắc phân phối của CNXH.
Thực chất của phân phối theo lao động.
Theo Mac trong nguyên tắc của phân phối theo lao động thì ‘’Mỗi người sản xuất sẽ nhận được trở lại, một số lượng vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã khấu trừ lao động của anh ta cho các quỹ xã hội. ,,(1) Mac coi đây là nguyên tắc phân phối cơ bản trong CNXH. Vì nó là thành quả của lao động, tác động trực tiếp vào tính tích cực của lao động xã hội. Đó là nguyên tắc phân phối đảm bảo công bằng cho những người sản xuất ngang nhau, tham gia vào quỹ tiêu dùng xã hội khi làm công việc ngang nhau.
Trong giai đoạn ngày nay phân phối theo lao động phải được dựa trên kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Việc đánh giá thông qua hai tiêu chí này không những phản ánh được đầy đủ mặt lượng của lao động mà còn phản ánh được mặt chất ẩn sâu trong phạm trù lao động đóng góp thực sự là bao nhiêu?. Chính vì việc phản ánh đúng và đầy đủ nên phân phối theo lao động được coi là hình thức phân phối chủ yếu ở nước ta hiện nay. Nó không chỉ đảm bảo công bằng mà còn tạo động lực cho người lao động làm việc hăng say, không ngừng nâng cao kiến thức, trình độ tay nghề.
1.3.1.2 Tính tất yếu của việc phân phối theo lao động.
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay thì phân phối theo lao động là hình thức thức căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này tất cả mọi người dều có quyền bình đẳng đối với tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện phân phối giữa những người lao động với nhau thông qua việc láy lao động làm thước đo. Đối với các thành phần kinh tế thì việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu. Bởi nhiều nguyên nhân:
Nhờ dựa trên chế độ công hữu mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ về mặt kinh tế được xác lập. Lao động đang trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người.Chính vì vậy mà phân phối theo lao động và phù hợp với các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta hiện nay.
Lý do thứ hai khiến phân phối theo lao động là cần thiết là: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, chưa có đủ sản phẩm để phân phối theo nhu cầu. Tiếp đó là sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động .... Dẫn đến mỗi người có cống hiến khác nhau đến kết quả lao động do đó phải căn cứ vào lao động đã cống hiến cho xã hội để phân phối.
Thêm một nguyên nhân nữa cho thấy sự cần thiết phải phân phối theo lao động
---------------------------------------
(1): Mac-Angghen VI tập, tập IV, NXB Sự Thật, Hà Nội 1983, trg 474-479
là lao động chưa trở thành nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương tiện để kiếm sống, còn là ‘’nghĩa vụ,, và quyền lợi của mỗi công dân. Hơn nữa còn những tàn dư về tư tưởng của xã hội cũ như thái độ ‘’muốn trút bỏ gánh nặng cho người khác, làm ít hưởng nhiều ,, . Do đó cần phải có hình thức phân phối để các thành viên trong xã hội dựa vào đó là cơ sở, động lực trong các hoạt động của mình.
Như vậy việc phân phối theo lao động là một điều tất yếu và phù hợp với hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động.
Nguyên tắc thực hiện phân phối theo lao động là phải lấy kết quả lao động làm thước đo để phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân. Lấy số lượng lao động và chất lượng lao động của mỗi người làm căn cứ trả công. Tuy nhiên nguyên tắc này phải gắn liền với yêu cầu đảm bảo công ăn việc làm cho những người có năng lực lao động, và tất yếu không thể nằm ngoài yêu cầu đảm bảo những nhu cầu cơ bản về đời sống vật chất tinh thần của người lao động.
Trong quá trình phân phối theo lao động cần chống hai sai lầm cơ bản khi thực hiện, đó là chủ nghĩa bình quân tiểu tư sản trong việc trả công lao động, vì nó gạt bỏ hoàn toàn nuyên tắc lợi ích vật chất, kìm hãm động lực lao động của người lao động. Thứ hai là khuynh hướng đòi mở rộng quá mức khoảng cách giữa các bậc lương, thang lương một cách không có căn cứ kinh tế và những đòi hỏi có sự ưu đãi đặc biệt đối với một số người.
Thực hiện tốt phân phối theo lao động sẽ có nhiều tác dụng to lớn đối với xã hội và bản thân người lao động. Bởi lẽ nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của sự công bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ lợi ích của sản xuất xã hội với lợi ích của từng cá nhân lao động. Nó khuyến khích người lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên môn làm cho đội ngũ lao động lành nghề ngày càng đông đảo. Điều đó còn thúc đẩy người lao động ra sức học tập văn hoá kỹ thuật, góp phần làm cho sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao động bằng chân tay bị xoá bỏ dần. Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn sức lao động được ổn định trong cả nước đảm cho sản xuất xã hội cân bằng và có kế hoạch. Thêm vào đó nó góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên xã hội. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi ích vật chất của mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình , từ đó ra sức mà đẩy mạnh sản xuất.
Tuy nhiên để thực hiện được mục tiêu ‘’làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu,, thì còn nhiều việc phải làm. Bởi theo Mac phân phối theo lao động vẫn là một thứ pháp quyền tư sản, quyền bình đẳng vẫn nằm trong khuôn khổ tư sản, tức là trong xã hội sản xuất hàng hoá được thực hiện theo nguyên tắc trao đổi ngang giá và quyền của người lao động tỷ lệ với lao động người ấy cung cấp thì điều đó vẫn còn thiếu xót. Bởi vởi với một công việc ngang nhau một phần tham dự như vào quỹ tiêu dùng xã hội nhưng trên thực tế người này vẫn được hưởng nhiều hơn người kia.
Chế độ phân phối theo lao động vẫn còn những thiếu xót nhưng đó là những thiếu xót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa công sản. Nếu như trong xã hội tư bản phân phối dựa trên cơ sở ‘’người có của, kẻ có công,, thì trong xã hội XHCN được dựa trên nguyên tắc ‘’ người làm nhiều hưởng nhiều, người làm ít hưởng ít, không làm kong hưởng,, đó là bình đẳng. Mặc dù còn tồn tại thiếu xót nhưng với tác dụng của mình thì phân phối theo lao động vẫn là hình thức phân phối phù hợp nhất trong điều kiện vừa thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá vừa đảm bảo công bằng cho các thành viên trong nền kinh tế hoạt động có hiệu quả.
Phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác
1.3.2.1 Tính tất yếu của việc phân phối theo vốn và những đóng góp khác.
Một thực trạng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta đó là nhu cầu về vốn là rất lớn – nó được xem là một yếu tố không thể thiếu nếu muốn thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Với cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần, nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng sẽ xuất hiện nhiều hình thức kinh doanh khác nhau.
Với nhu cầu vốn lớn như vậy nhưng nền kinh tế lại xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ có đặc điểm nổi bật đó là tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn , quá trình sản xuất , tích tụ và tập trung vốn chưa cao, một phần tương đối lớn vốn sản xuất hiịen nay vẫn còn nằm rải rác, phân tán trong tay những người lao động tư hữu nhỏ, tư sản nhỏ dưới nhiều dạng hình thức khác nhau. để có thể sử dụng được nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội chúng ta không thể áp đặt các chính sách như trưng thu, trưng mua hay đóng góp cổ phần một cách bình quân. Vì tất cả cách biện pháp đó đều là suy yếu lực lượng sản xuất vốn có của xã hội. Biện pháp được xem là hiệu quả nhất đó là phải có chính sách khuyến khích cho người sở hữu tài sản đầu tư vào việc phát triển sản xuất, từ đó không chỉ tạo lợi nhuận cho chính bản thân họ mà còn phát triển được nền sản xuất, giải quyết được nhu cầu việc làm đang trở nên ngày càng cấp thiết.
1.3.2.2 Quá trình thực hiện phân phối theo tài sản hay vốn và những đóng góp khác.
Từ sau nghị quyết Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành trung ương (khoá VI) ở nước ta đã xuất hiện các biện pháp huy đọng vốn như một số đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể đã huy động vốn của dân cư dưới các hình thức vay vốn, hùn vốn và góp vốn cổ phần không hạn chế với mức lãi hợp lý.... Cách làm như vậy đã có tác dụng đưa được vốn nhàn rỗi vào vòng chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Như vậy, mặc dù sở hữu vốn là tư nhân, nhưng việc sử dụng vốn đã mang tính xã hội.
Trước nhu cầu vốn như hiện nay cần tạo đủ điều kiện pháp lý để các thành phần kinh tế , tư nhân cá thể và tất cả các thành viên trong xã hội yên tâm mạnh dạn đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh để nguồn vốn không chỉ tạo ra cơ hội sinh lợi cho các thành viên tham gia đầu tư mà còn tạo ra những lợi ích kinh tế xã hội to lớn.
Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Cần sửa đổi bổ sung và công bố rộng rãi các chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có tính chất nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi thành viên xã hội yên tâm đầu tư vốn vaò sản xuất kinh doanh. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem xét phân phối kết quả sản xuất kinh doanh theo vốn và tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình sản xuất xã hội dưới hình thức ‘’lợi tức ,, và ‘’lợi nhuận,,, là một hình thức phân phối hợp pháp và phải được bảo hộ của pháp luật đối với những thu nhập hợp pháp đó .
1.3.3 Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội.
1.3.3.1 Tính tất yếu của việc phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội.
Nếu như phân phối theo lao động và phân phối theo vốn hay tài sản và những đóng góp khác được xem là tất yếu, là biện pháp thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển và tạo lập được sự công bằng giữa mọi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên với bản chất nhân đạo từ ngàn đời: ‘’ thương người như thể thương thân ,, thì việc chỉ thực hiện các hình thức phân phối trên thì chưa phản ánh được hết những gì ưu việt của chủ nghĩa xã hội đem lại. Song trong hoàn cảnh đất nước còn nhiều khó kh
File đính kèm:
- KC (172).doc