LÝ LUẬN GIÁO DỤC
Trong quá trình giáo dục toàn vẹn gồm hai mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau: Quá trình dạy học(QTDH) và Quá trình giáo dục(QTGD)(theo nghĩa hẹp). QTDH chức năng trội là nhận thức cuộc sống, còn QTGD chức năng trội là xây dựng thái độ đối với cuộc sống.
Trong QTGD toàn vẹn: dạy học bao giờ cũng thực hiện cả chức năng giáo dục, còn giáo dục cũng góp phần vào chức năng nhận thức cuộc sống. Mối quan hệ giữa dạy học và giáo dục chính là mối quan hệ giữa phương tiện và mục đích. Tuy nhiên dạy học và giáo dục nó cũng có đặc điểm riêng, quy luật riêng, hình thức tổ chức riêng và phương pháp riêng.
Tất cả vấn đề trên được xem xét trong lý luận giáo dục. Lý luận giáo dục (được hiểu theo nghĩa hẹp) là chuyên ngành của giáo dục học. Đó là hệ thống lý luận về tổ chức QTGD nhằm góp phần hình thành nhân cách của người được giáo dục.
32 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Tài liệu Lý luận giáo dục, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ LUẬN GIÁO DỤC
Trong quá trình giáo dục toàn vẹn gồm hai mặt có quan hệ chặt chẽ với nhau: Quá trình dạy học(QTDH) và Quá trình giáo dục(QTGD)(theo nghĩa hẹp). QTDH chức năng trội là nhận thức cuộc sống, còn QTGD chức năng trội là xây dựng thái độ đối với cuộc sống.
Trong QTGD toàn vẹn: dạy học bao giờ cũng thực hiện cả chức năng giáo dục, còn giáo dục cũng góp phần vào chức năng nhận thức cuộc sống. Mối quan hệ giữa dạy học và giáo dục chính là mối quan hệ giữa phương tiện và mục đích. Tuy nhiên dạy học và giáo dục nó cũng có đặc điểm riêng, quy luật riêng, hình thức tổ chức riêng và phương pháp riêng.
Tất cả vấn đề trên được xem xét trong lý luận giáo dục. Lý luận giáo dục (được hiểu theo nghĩa hẹp) là chuyên ngành của giáo dục học. Đó là hệ thống lý luận về tổ chức QTGD nhằm góp phần hình thành nhân cách của người được giáo dục.
Hệ thống lý luận giáo dục gồm những vấn đề cơ bản sau đây: Những tri thức về bản chất của quá trình giáo dục là những tri thức đặc trưng cơ bản của quá trình giáo dục, về các yếu tố cấu trúc của quá trình, các đặc điểm, về các qui luật, động lực của quá trình và về logic của quá trình giáo dục. Từ những tri thức đó giúp ta nhận thức các nguyên tắc giáo dục; các phương pháp giáo dục; nội dung giáo dục; các hình thức tổ chức giáo dục.
Lý luận giáo dục cung cấp tri thức cho nhà giáo dục làm tốt công tác giáo dục thế hệ trẻ.
CHƯƠNG I - QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
Muốn tổ chức có hiệu qủa QTGD cho học sinh cần phải có quan niệm đúng đắn về bản chất của QTGD trong nhà trường.
I/. Khái niệm và cấu trúc của QTGD:
1. Khái niệm của QTGD:
QTGD là một quá trình tác động chủ đạo, có định hướng của nhà giáo dục đến người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục tự giác, tích cực chuyển hóa những yêu cầu, những chuẩn mực xã hội thành những phẩm chất nhân cách, hệ thống định hướng giá trị, lối sống, qui tắc sống của cá nhân.
Từ khái niệm trên ta rút ra được ý cơ bản sau đây:
QTGD là một quá trình: Đối với mỗi con người, QTGD diễn ra suốt đời, mở đầu khi con người được sinh ra, kết thúc khi con người ngừng thở. Trong suốt đời người diễn ra sự biến đổi sinh lý qua các lứa tuổi, tâm lý cũng thay đổi, đồng thời cùng với hoạt động và giao tiếp con người tham gia các mối quan hệ xã hội vì vậy QTGD diễn ra hết sức phức tạp, không phẳng lặng, mà thăng trầm qua các giai đoạn lịch sử.
Trong QTDH có thể xác định, định lượng, định tính, thời gian ngắn hơn, ít phức tạp hơn, và phạm vi trong nhà trường.
Còn QTGD, kết quả rất khó xác định, quá trình diễn ra lâu dài, phức tạp và phạm vi hoạt động thì rất rộng (gia đình, nhà trường và xã hội ).
QTGD là quá trình xã hội hóa tích cực. QTGD mang tính xã hội rất cao. Đó là nhà giáo dục lựa chọn, tổ chức thường xuyên, liên tục các hoạt động xã hội tích cực cho người được giáo dục, qua đó rèn luyện đạo đức cho cá nhân.
Trong QTGD, nhà giáo dục đóng vai trò chủ đạo (chủ thể tác động )
Lực lượng tham gia vào QTGD là gia đình, nhà trường, xã hội, những người xung quanh và nhóm bạn bè thân thích.
Trong các lực lượng này, nhà trường giữ vai trò chủ đạo:
Xây dựng mục đích giáo dục: mô hình nhân cách mà trong đó cốt lõi là hệ thống định hướng giá trị.
Nội dung giáo dục chính là hệ thống định hướng giá trị: gồm hệ thống đạo đức, thế giới quan, niềm tin, khát vọng, của con người sao cho phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện tại và hướng con người tự chọn.
Lựa chọn phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục sao cho phù hợp. Đây chính là vai trò của người tổ chức, điều khiển, định hướng quá trình hình thành phẩm chất nhân cách của người được giáo dục.
Trong QTGD, người được giáo dục với tư cách là đối tượng giáo dục.
Là học sinh, và cả những người đặc biệt, đầy phức tạp (gồm những tội phạm, tệ nạn xã hội, trẻ em chưa ngoan, những người khuyết tật ).
Là đối tượng( khách thể) bởi vì chịu sự tác động có tính định hướng của nhà giáo dục.
Mặt khác người được giáo dục với tư cách là chủ thể QTGD vì: quá trình đó cá nhân không hưởng ứng một cách thụ động, cứng nhắc mà tiếp thu có chọn lọc, chủ động, tích cực phù hợp với hứng thú, nhu cầu, quan điểm, tình cảm, niềm tin, vốn sống cá nhân. Người được giáo dục có thể tự tổ chức, tự điều khiển, điều chỉnh, tự cải biến để hoàn thiện nhân cách của mình.
Trong QTGD, không phải lúc nào nhà giáo dục cũng giữ vai trò chủ đạo, vai trò này còn phụ thuộc vào khả năng tự cải biến của cá nhân (khả năng tự giáo dục). Như vậy trong quá trình diễn ra sự tác động qua lại tích cực giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Nếu không có sự tác động qua lại thì sẽ không có bản thân QTGD theo đúng nghĩa của nó.
Nói khác đi, QTGD diễn ra sự tác động qua lại tích cực và thống nhất biện chứng giữa giáo dục và tự giáo dục.
2. Cấu trúc của quá trình giáo dục:
Theo quan điểm tiếp cận hệ thống toàn vẹn thì QTGD là một bộ phận của quá trình sư phạm. QTGD cũng có cấu trúc gồm những nhân tố sau: mục đích và nhiệm vụ giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và phương tiện giáo dục, nhà giáo dục, người được giáo dục và kết quả giáo dục.
2.1. Mục đích và nhiệm vụ giáo dục:
Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa, nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước sự biến động của nền kinh tế xã hội ấy, nền giáo dục Việt Nam cũng phải biến đổi để đáp ứng yêu cầu xã hội.
Mục tiêu giáo dục là”đào tạo con người Việt nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của người công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
(trích Điều 2, Luật giáo dục, năm 2000)
Để thực hiện mục đích trên QTGD phải hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục nhất định:
Tổ chức hình thành và phát triển ở người được giáo dục ý thức cá nhân về các chuẩn mực xã hội nói chung, các chuẩn mực đạo đức, pháp luật nói riêng đã được qui định.Ý thức cá nhân là một thể thống nhất giữa sự hiểu biết cá nhân về các chuẩn mực xã hội và niềm tin cá nhân về ý thức xã hội và ý thức cá nhân của các chuẩn mực đó.
Tổ chức hình thành phát triển ở người được giáo dục xúc cảm, tình cảm tích cực có tác dụng như “chất men” đặc biệt thúc đẩy cá nhân chuyển hoá ý thức về các chuẩn mực xã hội thành hành vi và thói quen tương ứng.
Tổ chức hình thành phát triển ở người được giáo dục hệ thống hành vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội đã được quy định và không những thế lại còn tổ chức cho họ tự lặp đi lặp lại hệ thống hành vi thành thói quen bền vững, gắn bó mật thiết với nhu cầu tích cực của cá nhân.
Nhân tố mục đích và nhiệm vụ là vị trí hàng đầu của QTGD. Nó có ý nghĩa định hướng và quyết định cho sự vận động và phát triển của QTGD.
2.2. Nội dung giáo dục:
Nội dung giáo dục qui định hệ thống những chuẩn mực xã hội cần giáo dục cho người được giáo dục trong nhà trường phổ thông gồm các vấn đề sau đây:
Thế giới quan khoa học: là hệ thống quan điểm của con người về thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy.
Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
Các nguyên tắc đạo đức cơ bản.
Hệ thống các giá trị.
Ý thức pháp luật.
Giáo dục những vấn đề toàn cầu của thời đại: hoà bình, dân số, môi trường, năng lượng, bệnh sida, đói nghèo.
Nội dung giáo dục chịu sự chi phối của mục đích và nhiệm vụ giáo dục, nó được phục vụ cho việc thực hiện mục đích, nhiệm vụ giáo dục.
2.3 Phương pháp và phương tiện giáo dục:
Phương pháp và phương tiện giáo dục là những cách thức phương tiện hoạt động thống nhất của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm giúp cho người được giáo dục chuyển hoá những chuẩn mực xã hội thành những hành vi, thói quen đạo đức, vốn sống kinh nghiệm của cá nhân phù hợp với mục đích giáo dục.
Các phương pháp giáo dục được thực hiện trong các hình thức giáo dục đa dạng ở trên lớp, trong trường và ngoài trường.
Phương pháp giáo dục chịu sự chi phối của nội dung giáo dục.
2.4 Đối tượng giáo dục:
Người được giáo dục được coi là đối tượng giáo dục, nhận được sự tác động có định hướng của nhà giáo dục. Song người được giáo dục không phải là thực thể thụ động, mà là thực thể chủ động, tích cực, họ tiếp thu những tác động giáo dục một cách chọn lọc dựa trên hứng thú, nhu cầu, quan điểm, tình cảm, niền tin của cá nhân, họ có khả năng tự vận động, tự cải biến, tự điều chỉnh, tự hoàn thiện bản thân. Kết quả QTGD là cá nhân tự giác tích cực chuyển hoá những chuẩn mực xã hội thành phẩm chất đạo đức, hệ thống định hướng giá trị, lối sống của cá nhân.Với ý nghĩa trên họ hoạt động với tư cách là chủ thể tự giáo dục.
2.5 Nhà giáo dục:
Nhà giáo dục với tư cách là chủ thể tác động có vai trò chủ đạo: tổ chức điều khiển quá trình hình thành nhân cách của người được giáo dục một cách có mục đích có kế hoạch, có phương pháp, có tổ chức hợp lý. Qua đó kích thích và phát triển người được giáo dục tính tự giác, tích cực tự giáo dục.
Trong QTGD không phải bất cứ lúc nào nhà giáo dục cũng giữ vai trò chủ đạo mà nó còn phụ thuộc vào khả năng tự hoàn thiện của mỗi cá nhân.
2.6 Kết qủa giáo dục:
Kết qủa giáo dục phản ánh kết quả vận động và phát triển không ngừng của các thành tố: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, người giáo dục, người được giáo dục. Trong đó vận động tích cực của người được giáo dục là yếu tố bên trong và quyết định đến kết quả giáo dục.
Kết qủa giáo dục thể hiện ở chỗ người được giáo dục phát triển ý thức về các chuẩn mực xã hội đã được quy định. Phát triển tình cảm, hành vi, thói quen tích cực phù hợp với mục đích giáo dục. Kết quả giáo dục là sự trưởng thành, sự lớn lên về mặt giá trị trong đạo đức nhân cách của mỗi cá nhân. Hệ thống định hướng giá trị, đạo đức trong mỗi cá nhân luôn biến đổi, phát triển, hoàn thiện cùng với hoạt động, giao tiếp của cá nhân.
Tất cả các nhân tố trên tồn tại và phát triển trong mối quan hệ biện chứng với nhau. Nó tồn tại và phát triển trong mối quan hệ biện chứng với môi trường kinh tế xã hội: môi trường kinh tế xã hội vừa đề ra yêu cầu, vừa tạo điều kiện cho các nhân tố giáo dục của QTGD. Các nhân tố QTGD tác động trở lại với môi trường kinh tế xã hội.
II. Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục:
1. Bản chất của quá trình giáo dục:
QTGD về bản chất là quá trình chuyển hoá tích cực, tự giác những chuẩn mực xã hội đã được quy định thành hành vi và thói quen tương ứng của người được giáo dục dưới tác động chủ đạo của nhà giáo dục.
QTGD là quá trình xã hội hóa được thể hiện trong 3 môi trường giáo dục:
Gia đình: Khi sinh ra, người mẹ là người đầu tiên trẻ tiếp xúc và cũng chính thức quá trình xã hội hóa bắt đầu. Người mẹ dạy cho con những chuẩn mực xã hội đầu tiên, dạy cho con học những gì phải làm, học những gì không được làm, học ngôn ngữ, học các giá trị xã hội để thích ứng được với xã hội. Quá trình xã hội hóa chính là quá trình mô phỏng thông qua tấm gương của cha mẹ, là quá trình tái tạo lại bản thân về mặt văn hóa và xã hội. Quá trình xã hội hóa là cá nhân lĩnh hội kinh nghiệm xã hội một cách dần dần từ môi trường hẹp đến môi trường xã hội rộng lớn. Gia đình chính là môi trường vi mô cực kỳ quan trọng, là giai đoạn xã hội tiền khởi, nhưng không có nghĩa là quá trình xã hội hóa gia đình chỉ dừng lại ở giai đoạn tiền khởi mà diễn ra suốt cuộc đời như một quá trình liên tục. Gia đình chính là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Gia đình tham gia vào tất cả các giai đoạn xã hội hóa trong chu trình sống của con người. Gia đình có vai trò quan trọng là hướng dẫn hoạt động cho trẻ: tổ chức cuộc sống trong gia đình, dạy cách chào hỏi, mời, dạy cách ứng xử, xem chương trình truyền hình nào, học trường nào, chơi với ai, giúp trẻ nhận thức đúng sai,ý thức trách nhiệm với cha mẹ, với người xung quanh, với cộng đồng
Nhà trường: là tổ chức xã hội tiến bộ, tích cực. Qúa trình xã hội hóa diễn ra ở nhà trường rất qui mô, khoa học, có tổ chức, có kế hoạch. Giáo dục nhà trường là con đường xã hội hóa ngắn nhất, mang lại hiệu quả cao. Giáo dục nhà trường luôn đi trước, dự báo, hoạch định cho tương lai. Giáo dục nhà trường còn chuẩn bị mọi mặt cho cá nhân thích ứng, hòa nhập với yêu cầu xã hội.
Nhiệm vụ giáo dục nhà trường lựa chọn tổ chức các hoạt động giáo dục đưa các em tham gia tích cực vào các hoạt động qua đó rèn luyện hành vi và thói quen đạo đức; phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường để tạo sức mạnh giáo dục đồng bộ, tạo môi trường giáo dục lành mạnh.
Xã hội: là lực lượng giáo dục ngoài gia đình, nhà trường nhưng lại có mối quan hệ rất mật thiết, tác động rất mạnh đến gia đình và nhà trường. Xã hội là môi trường rộng lớn, chịu ảnh hưởng của nền kinh tế- xã hội, các thiết chế xã hộisong sự tương tác, kiểm soát các mối quan hệ xã hội rất lỏng lẻo vì vậy không thể tránh khỏi những yếu tố tiêu cực gây nhiễu, gây khó khăn cho QTGD.
Thực chất QTGD là quá trình xã hội hoá, là quá trình con người tiếp thu nền văn hoá xã hội, thừa nhận những quy tắc xã hội, trải nghiệm những quy tắc xã hội trong hành vi của mình, đồng thời qua đó tạo dựng nền văn hoá xã hội. Trong cuộc sống, con người tiếp thu kinh nghiệm xã hội, những giá trị và chuẩn mực, chuẩn bị vai trò xã hội để hoà nhập vào đời sống cộng đồng.
Quá trình xã hội hoá tích cực là quá trình tác động có định hướng của xã hội đến cá nhân, nhưng cá nhân không tiếp thu thụ động, bắt chước các khuôn mẫu hành vi, các vai trò xã hội. Đó là con đường cá nhân tiếp thu các chuẩn mực xã hội một cách tích cực, chủ động, là quá trình chọn lọc thực sự tự giác. Quá trình cá nhân tiếp thu những giá trị, những quy tắc xã hội và biến thành hệ thống định hướng giá trị cho riêng mình. Quá trình hình thành hệ thống định hướng giá trị của cá nhân phát triển theo hình xoáy ốc, theo thể thống nhất toàn vẹn. Chúng hình thành ở trong gia đình, nhà trường, xã hội. Trong đó vai trò nhà trường là chủ đạo, định hướng, người tổ chức các hoạt động qua đó cá nhân tiếp thu kinh nghiệm, các chuẩn mực xã hội
2. Đặc điểm của quá trình giáo dục:
2.1. QTGD gắn chặt với QTDH
Hai quá trình dạy học và giáo dục diễn ra đồng thời và thống nhất với nhau ở mục đích: đào tạo con người phát triển toàn diện.
QTDH không những giúp con người nắm vững được hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ mà còn hình thành và phát triển thế giới quan khoa học, những phẩm chất nhân cách của người công dân, người lao động.
QTGD tốt sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy hoạt động học tập của học sinh: xác định thế giới quan, động cơ, thái độ học tập đúng đắn, có phẩm chất nhân cách: trung thực, độc lập, sáng tạo, vượt khó
Nội dung tất cả các bộ môn khoa học đều tham gia vào QTGD phẩm chất đạo đức cho học sinh.
Không chỉ nội dung dạy học mới góp phần giáo dục mà cả phương pháp, nguyên tắc, hình thức tổ chức dạy học cũng góp phần giáo dục.
Mối quan hệ giữa QTDH với QTGD là mối quan hệ phương tiện với mục đích. Thông qua dạy chữ để dạy người.
2.2. QTGD là quá trình biện chứng, lâu dài, phức tạp:
2.2.1. Tính biện chứng:
QTGD tuân theo phép biện chứng: tính phổ biến và liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng; qui luật thống nhất, đấu tranh giữa các sự vật hiện tượng; qui luật lượng, chất; phủ định của phủ định
QTGD là quá trình biến đổi, phát triển không ngừng về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức cho phù hợp với đối tượng giáo dục đang trong giai đoạn trưởng thành trong điều kịên xã hội luôn biến động.
Nhà sư phạm luôn lựa chọn nội dung, phương pháp, cách tổ chức cho phù hợp tình huống sư phạm dựa trên sự linh hoạt, khéo léo, tế nhị và nghệ thuật sư phạm của nhà giáo dục.
Là quá trình giải quyết các mâu thuẫn đang nảy sinh trong sự phát triển nhân cách của học sinh.
2.2.2. Tính lâu dài: (tính vĩnh hằng của QTGD).
Đối với xã hội: QTGD xuất hiện từ thuở bình minh lịch sử loài người, nó tồn tại và phát triển cùng với lịch sử phát triển xã hội loài người, và mất đi khi loài người không còn tồn tại trên trái đất.
Đối với mỗi con người: QTGD bắt đầu khi con người cất tiếng khóc chào đời và mất đi khi con người ngừng thở.
QTDH được xác định, định lượng, định tính. Còn QTGD kết quả khó xác định, khó đánh giá, không bền vững.
QTGD, người được giáo dục không phải dừng lại nắm những tri thức về chuẩn mực xã hội đã qui định, mà còn phải hình thành niềm tin, tình cảm tích cực, rèn luyện những hành vi, thói quen hành vi tương ứng.
Đó là quá trình đòi hỏi người được giáo dục phải tiến hành cuộc đấu tranh gay gắt, liên tục giữa những quan điểm, niềm tin, tình cảm, hành vi, thói quen cũ lạc hậu.
Nội dung giáo dục phát triển theo hình xoáy ốc
2.2.3. Tính phức tạp:
Con đường giáo dục đi từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, chưa ý thức đến ý thức.
Tính toàn vẹn trong nhân cách: khi tập trung hình thành phẩm chất đạo đức này thì đồng thời phẩm chất đạo đức khác được hình thành.Các phẩm chất đạo đức không đứng đơn lẻ mà liên kết chặt chẽ, trong nhau, trong tính tổng thể toàn vẹn.
Sự phối hợp các lực lượng giáo dục: Gia đình, Nhà trường, Xã hội.
Trong QTGD, người được giáo dục chịu ảnh hưởng của những tác động từ nhiều phía: gia đình, nhà trường, xã hội. Ngay trong gia đình, những tác động giáo dục đến người được giáo dục cũng không đồng bộ.
QTGD là phối hợp nhiều nội dung, nhiều phương pháp, nhiều nhiệm vụ; kết hợp yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài.
2.3. QTGD có tính cá biệt:
Đối tượng của QTGD là con người cụ thể, con người lịch sử.
Mỗi con người có những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau: di truyền ở cha mẹ hệ thống gen, hệ thần kinh, khí chất, tư chất khác nhau.
Mỗi con người xuất thân từ mỗi gia đình khác nhau: môi trường sống, phương pháp giáo dục gia đình, lối sống, phong tục tập quán, kinh tế.
Mỗi con người có mối quan hệ xã hội khác nhau: bạn bè, tập thể học sinh, thầy cô giáo và quan hệ xóm làng
Mỗi con người có trình độ vốn sống, nhu cầu, tình cảm, xu hướng và hứng thú sở trường khác nhau.
Mỗi con người có những phản ứng không hoàn toàn giống nhau với những tác động từ bên ngoài: có người thờ ơ, có người phản ứng mạnh, có ngưới tiếp thu ở mức độ sâu
Từ những vấn đề trên, người làm công tác giáo dục bên cạnh những tác động chung cần phải có những tác đông riêng phù hợp với từng đối tượng trong từng tình huống cụ thể.Tránh rập khuôn máy móc, hình thức.
2.4. QTGD là quá trình tổ chức cuộc sống, tổ chức các hoạt động hợp lý:
Bản chất QTGD là quá trình tổ chức, quá trình lãnh đạo các hoạt động giáo dục gồm:
Hoạt động nhận thức
Hoạt động lao động
Hoạt động xã hội
Sinh hoạt tập thể
Vui chơi giải trí và giao lưu.
Muốn tổ chức các hoạt động có kết quả, phải xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh mà qua đó tổ chức các hạot động.
III. Những qui luật của quá trình giáo dục:
Bản chất của QTGD biểu hiện ở những qui luật giáo dục, khi tổ chức lãnh đạo QTGD, người làm công tác giáo dục phải nắm qui luật và vận dụng cho phù hợp đối tượng.
1. QTGD phụ thuộc vào toàn bộ nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
Nhân tố khách quan: kinh tế, chính trị, văn hoá, pháp luật khoa học, dân tộc, tập quán, tâm lý xã hội, môi trường xung quanh trẻ.
Nhân tố chủ quan: là đối tượng giáo dục có nhu cầu, hứng thú, quan điểm, tình cảm, niềm tin, tính chủ thể è chọn lọc tác động.
2.Hiệu quả QTGD phụ thuộcvào việc tổ chức hợp lý những hoạt động có ích
cho xã hội và qua giao lưu của người được giáo dục.
3.Tác động sư phạm của nhà giáo dục và hoạt động tích cực, tự giác của người được giáo dục thống nhất với nhau.
4.Các tác động giáo dục có tính toàn vẹn đối với các mặt nhận thức-lý trí, tình cảm-động cơ và kỹ năng hành động- hành vi của người được giáo dục.
5. Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục thống nhất biện chứng với nhau.
6. QTGD và QTDH thống nhất biện chứng với nhau.
IV. Động lực của quá trình giáo dục:
Là những mâu thuẫn của bản thân QTGD.
Người ta chia ra hai loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
1. Mâu thuẫn bên trong:(Là mâu thuẫn nảy sinh ở tất cả giai đoạn của QTGD).
MĐ, NVGD mới >< ND lạc hậu
NDGD đổi mới >< PPGD lạc hậu
YCGD cao >< Trình độ GD thấp
Nhu cầu cao >< Năng lực cá nhân
Lý trí >< Tình cảm
Lời nói >< Việc làm
2. Mâu thuẫn bên ngoài: (Là điều kiện của sự phát triển).
Môi trường kinh tế XH phát triển >< Yêu càu cao đối với nhân cách
MĐ,NVGD >< Yêu cầu GD
Tích cực >< Tiêu cực
Lý luận >< Thực tiễn
Tiến bộ >< Lạc hậu
MĐ,NVGD >< Điều kiện, phương tiện vật chất
Những mâu thuẫn bên ngoài nếu giải quyết có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho sự vận động và phát triển của QTGD.Tuy nhiên trong những hoàn cảnh đặc biệt vào thời điểm nào đó thì mâu thuẫn bên ngoài có tác dụng quyết định.
3. Những điều kiện để mâu thuẫn trở thành động lực:
3.1. Mâu thuẫn phải được người giáo dục ý thức đầy đủ
3.2 Mâu thuẫn phải vừa sức với người được giáo dục
3.3 Mâu thuẫn nảy sinh trong tiến trình giáo dục
V. Lô gic của quá trình giáo dục:
Lôgic của QTGD là trình tự thực hiện hợp lý các khâu của nó nhằm hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục đã được qui định.
1. Khâu thứ nhất: Tổ chức điều khiển học sinh nắm vững những tri thức về chuẩn mực xã hội đã được qui định
Các chuẩn mực xã hội, với những giá trị của chúng được coi là những phương tiệncó tác dụng định hướng và điều tiết hành vi của cá nhân hay của nhóm xã hội trong những điều kiện nhất định. Mặt khác, chúng còn là một trong những điều kiện mà xã hội sử dụng để kiểm tra hành vi của họ và tự kiểm tra hành vi của mình.
Với những tác động trên, chuẩn mực xã hội mang các yếu tố cho phép, bắt buộc hay cấm đoán.
Hiện nay trong xã hội tồn tại nhiều hệ thống chuẩn mực: chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực phong tục và truyền thống, chuẩn mực thẩm mỹNhiều loại chuẩn mực đạo đức, pháp luật đã được lựa chọn và đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
Vì vậy muốn cho người được giáo dục tự giác thực hiện được những chuẩn mực đã được qui định thì nhà giáo dục cần giúp cho họ có những tri thức cần thiết về các chuẩn mực này như:
Ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân của chuẩn mực.
Nội dung của chuẩn mực bao gồm cả những khái niệm tương ứng.
Cách thức thực hiện các chuẩn mực.
2. Khâu thứ hai: Tổ chức điều khiển học sinh hình thành niềm tin và tình cảm tích cực với các chuẩn mực xã hội đã qui định.
Trên cơ sở những tri thức về các chuẩn mực xã hội, học sinh dần dần hình thành niềm tin đối với các chuẩn mực này.
Niềm tin được thể hiện như sau:
Nắm vững những tri thức về các chuẩn mực xã hội
Tin về mặt lí luận cũng nhhư mặt thực tiễn đối với chân lí và tính đúng đắn của các chuẩn mực xã hội.
Mong muốn tuân theo những yêu cầu được phản ánh trong chuẩn mực xã hội.
Có hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội
Hài lòng về những hành vi của mình phù hợp với các chuẩn mực xã hội
Tỏ thái độ không khoan nhượng đối với những hành vi mâu thuẫn với các chuẩn mực xã hội
Trong quá trình hình thành ý thức nói chung, niềm tin nói riêng, người được giáo dục chuyển hóa ý thức thành hành vi và thói quen
Nếu có ý thức về các chuẩn mực xã hội mà không có tình cảm tương ứng thì hành vi sẽ khô khan cứng nhắc.Mặt khác, nếu ý thức không được nắm một cách tự giác thì sẽ dẫn đến lời nói mâu thuẫn với việc làm.Từ đó, hình thành ở người được giáo dục bộ mặt đạo đức giả tạo.
3. Khâu thứ ba: Tổ chức điều khiển học sinh rèn luyện hành vi và thói quen phù hợp với chuẩn mực xã hội đã được qui định.
Trên cơ sở nhận thức và tình cảm tích cực về các chuẩn mực xã hội, người đươc giáo dục sẽ rèn luyện những hành vi và thói quen tương ứng.
Hành vi của một con người xét cho cùng, là sự thể hiện sinh động bộ mặt đạo đức thẩm mỹ của người đo. Cho nên, một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong QTGD là phải tổ chức, điều khiển người được giáo dục tự rèn luyện nhằm hình thành những hành vi phù hợp với những chuẩn mực xã hội đã được qui định.Và hơn thế nữa họ lặp đi lặp lại nhiều lần những hành vi đã hình thành, trở thành thói quen hành vi.
Thói quen hành vi về các chuẩn mực xã hội gắn liền với nhu cầu của chủ thể hành vi – của người được giáo dục. Do đó họ sẽ thấy thoải mái, hài lòng, thấy cần thiết phải có hành vi ứng xử đúng đắn và nhất là bị ép buộc phải thực hiện những hành vi sai trái.
Những hành vi mà người được giáo dục rèn luyện cần được thỏa mãn các chỉ tiêu sau đây:
Nội dung các chuẩn mực được thể hiện trong hành vi
Sự thể hiện hành vi có tính phổ biến
Sự thể hiện hành vi có tính bền vững
Hành vi có động cơ đúng đắn
Chỉ tiêu thứ nhất nhằm kiểm tra xem hành vi có phù hợp với chuẩn mực đã được quy định không? Nếu phù hợp thì ở mức nào?
Chỉ tiêu thứ hai nhằm kiểm tra hành vi có được thực hiện ở mọi nơi mọi chỗ không, nghĩa là có được nghiêm túc thực hiện ở trường, gia đình, ở nơi công cộng.
Chỉ tiêu thứ ba nhằm kiểm tra hành vi có được duy trì bền vững không.
Chỉ tiêu thứ tư nhằm kiểm tra hành vi được thực hiện với động cơ đúng hay sai, có ýnghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân như thế nào?
Các chỉ tiêu này hợp thành một chỉnh thể thống nhất.
Những điều kiện để hình thành hành vi và thói quen:
Tổ chức cho học sinh tham gia mọi hình thức hoạt động với những tình huống đa dạng, ngày càng phức tạp.
Bồi dưỡng cho học sinh ý thức và năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá thường xuyên.
Kết luận:
Các khâu trên đây có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau, thâm nhập vào nhau.Tuỳ từng đối tượ
File đính kèm:
- Vu THi Sai soan LLGD.doc