Sổ tay văn học lớp 11( sưu tầm)

1. Vũ trụ nội mạc phi phận sự

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi thủ khoa, khi thám tán, khi Tổng đốc Đông

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

2. Lúc bình Tây cờ đại tướng,

Có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên

Đô môn giải tố chi niên

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

3. Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng

4. Được mất dương dương người tài thượng,

Khen chê phơi phơi ngọn đông phong

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không phật, không tiên, không vướng tục.

5. Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú

Nghĩa vụ tôi cho vẹn đạo sơ chung

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

 

doc98 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 448 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Sổ tay văn học lớp 11( sưu tầm), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Sổ tay văn học lớp 11( sưu tầm): Bài ca ngất ngưởng                                  Nguyễn Công Trứ 1. Vũ trụ nội mạc phi phận sự Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng. Khi thủ khoa, khi thám tán, khi Tổng đốc Đông Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. 2. Lúc bình Tây cờ đại tướng, Có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên Đô môn giải tố chi niên Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. 3. Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng 4. Được mất dương dương người tài thượng, Khen chê phơi phơi ngọn đông phong Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không phật, không tiên, không vướng tục. 5. Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú Nghĩa vụ tôi cho vẹn đạo sơ chung Trong triều ai ngất ngưởng như ông! Tác giả     Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) Hiệu là Hi Văn quê ở Uy Viễn, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. học giỏi, giàu chí khí, tài hoa, đỗ thủ khoa. Văn võ toàn tài, nhiều thăng trầm trên đường công danh, hoan lộ. Giàu lòng yêu nước thương dân. Lấn biển, khai hoang, di dân lập ra 2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Năm 80 tuổi vẫn xin vua cần quân ra trận đánh Pháp (1858).     Thơ văn để lại: Trên 50 bài thơ, trên 60 bài hát nói và một bài phú nôm nổi tiếng “Hàn nho phong vị phú”, một số câu đối nôm rất thâm thúy. Đi thi tự vinh, Nợ tang bồng, Nợ công danh, Chí nam nhi, Trên vì nước, dưới vì nhà, Bài ca ngất ngưởng là những bài thơ rất nổi tiếng của Nguyễn Công Trứ. Xuất xứ, chủ đề     “Bài ca ngất ngưởng” viết sau năm 1848 – là năm Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở Hà Tĩnh quê nhà.     - Như một lời tự thuật cuộc đời, qua đó Nguyễn Công Trứ tự hào về tài năng và công danh bày tỏ một quan niệm sống tài tử, phóng khoáng ngoài vòng kiềm tỏa. Bố cục bài hát nói     - Khổ đầu (4 câu): Có tài danh nên ngất ngưởng.     - Khổ giữa (4 câu): Có danh vọng, về trí sĩ càng ngất ngưởng.     - Hai khổ dôi (8 câu tiếp): Một cuộc sống tài tử, phóng túng ngất ngưởng.     - Khổ xếp (3 câu cuối): Một danh thần nên ngất ngưởng. Nội dung     * Ngất ngưởng: Không vững ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (từ điển tiếng Việt). Ở bài thơ này, nên hiểu là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người.     1. Khổ đầu, câu 1, 2 đối lập giữa phận sự mang tầm vóc cũ trụ lớn lao với cảnh ngộ đã vào lồng” rất chật hẹp tù túng. Thế mà ông Hi Văn đây - tự xưng rất đỗi kiêu hãnh tự hào - vẫn thi thố được tài năng, học giỏi, thi hương đỗ giải nguyên (thủ khoa) làm quan võ là tham tán, làm quan văn là Tổng đốc Đông. Là một con người có tài thao lược nên ta (ông Hi Văn) đã nên tay ngất ngưởng, một con người khác đời, khác thiên hạ, và bất chấp mọi người. Câu 3, 4 với cách ngắt nhịp (3 – 3 – 4 – 3 – 3 – 2) đã tạo nên một giọng nói điệu hào hứng:             “Khi thủ khoa/ khi tham tán/ khi tổng đốc Đông/             Gồm thao lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng”     2. Khổ giữa: Tác giả khẳng định mình là một con người có tài hình bang tế thế, lúc loạn thì giúp nước “bình Tây cờ đại tướng”, lúc bình thì giúp vua làm “phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là việc đã qua, còn nay ta đã về trí sĩ, nên ta sống ngất ngưởng bất chấp mọi người:             “Đô môn giải tố chi niên             Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”     Nay đã trả áo mũ cho triều đình, ta về quê không cưỡi ngựa mà là cưỡi bò vàng; con bò vàng của ta cũng đeo đạc ngựa, đó là một sự ngất ngưởng, rất khác người.     3. Khổ dôi (hai khổ 3, 4) nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa là một danh tướng (tay kiếm cung) thế mà nay rất từ bi hiền lành, bình dị. Đi vãn cảnh chùa chiền, đi thăm cảnh đẹp (Rú Nài): “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi dì” (một hai nàng hầu). Và do đó “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”. Bụt cười hay thiên hạ cười, hay ông Hi Văn tự cười mình? Chuyện “được, mất” là lẽ đời như tích “thất mã tái ông” mà thôi, chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai như ngọn gió đông (xuân) thổi phơi phới qua. Không quan tâm đến chuyện được, mất, bỏ ngoài tai mọi lời khen, chê thị phi, ông đã sống những tháng ngày thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà vẫn trong sạch, thanh cao. Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng trắc) lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp đã tạo nên câu thơ giàu tính nhạc, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, chẳng vướng chút bụi trần:             “Khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng             Không Phật/ không tiên/ không vướng tục”     4. Khổ xếp, Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung trong đạo “vua tôi” chẳng kém gì những     Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kỳ, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Rồi ông đĩnh đạc tự xếp vị thế của minh trong lịch sử:             “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú             Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung             Trong triều ai ngất ngưởng như ông”     Hai so sánh xa gần, ngoại, nội, Bắc sử và trong triều (Nguyễn) tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng “ông” vang lên đĩnh đạc hào hùng.     Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, phải có thực tài, phải có thực danh phải “vẹn đạo vua tôi” thì mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được và cách sống ngất ngưởng của ông thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, “không vướng tục” cũng không thoát li. Dương phụ hành                            Cao Bá Quát             Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau             Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.             Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói             Kéo áo rầm rì nói với nhau.             Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay             Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!             Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy             Biết đâu nỗi khách biệt li này.                                     Lê Tư Thực dịch Tác giả     Cao Bá Quát (1808 – 1855), quê ở Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội, học giỏi, nổi tiếng thần đồng (Thần Siêu, Thánh Quát). Đỗ cử nhân, làm một chức quan nhỏ trong triều Nguyễn rồi làm giáo thụ Quốc Oai, Sơn Tây. Nổi tiếng danh sĩ Bắc Hà. Tên tuổi gắn liền với cuộc khởi nghĩa nông dân Mĩ Lương, Sơn Tây. Tử trận, bị tru di tam tộc. Là nhà thơ lớn dân tộc, nửa đầu thế kỷ 19. Tác phẩm còn lại: 1353 bài thơ và 21 bài văn bằng chữ Hán; vài chục bài thơ nôm và bài phú nôm nổi tiếng: “Tài tử đa cùng phú”. Tình cảm thắm thiết đối với quê hương, vợ con và bằng hữu dào dạt trong nhiều bài thơ của Cao Bá Quát. Ý tứ mới lạ, khí phách hào hùng, văn chương hoa lệ là cốt cách thi sĩ Chu Thần Cao Bá Quát. Xuất xứ, chủ đề     - “Dương phụ hành” được viết vào thời gian từ 1842 – 1843, khi Cao Bá Quát đi “dương trình hiệu lực” sang In đô nê xia.     - Bài thơ nói về người thiếu phụ Tây Dương, qua đó nhà thơ nghĩ về giai nhân và tài tử, về hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt. Hình ảnh thiếu phụ Tây Dương     - Khung cảnh: Một đêm trăng trên đại dương. Gió bể thổi lạnh.     - Trang phục: Áo trắng phau như tuyết (y như tuyết). Một vẻ đẹp trắng trong. Nhà thơ ngạc nhiên lần đầu thấy, nhiều xúc động.     - Cử chỉ ngôn ngữ: Nàng nhìn sang thuyền người Nam, thấy đèn lửa sáng (đăng hoả minh), tựa vai chồng, kéo áo chồng, nói rầm rì Trên tay nàng “hững hờ cốc sữa biếng cầm tay”. Lạ nhất là cử chỉ “uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”. Nũng nịu và yêu thương. Nàng đang sống trong sum họp và hạnh phúc lứa đôi. Trong bản chữ Hán, từ “lang” (chồng, chàng) được nhắc lại 3 lần ở các câu 2, 4, 7. Màu trắng của áo, màu xanh của trăng (thanh nguyệt) màu sáng của lửa đèn, và cái lạnh của gió biển đêm đại dương – tất cả góp phần đặc tả nhan sắc, tâm hồn và hạnh phúc của người thiếu phụ phương Tây. Ngôn ngữ và cách tả cho thấy một cái nhìn ngạc nhiên, một thái độ trân trọng đối với con người Châu Âu với một nền văn minh xa lạ, lần đầu tác giả tiếp xúc. Thơ trung đại thường nói đến giai nhân là nói đến mệnh bạc; trong bài thơ này, tác giả tả giai nhân trong hạnh phúc sum họp lứa đôi. Ý tứ ấy rất mới lạ. Tâm trạng nhà thơ     - Câu 6, tả bể đêm sương lạnh. Đó là một nét vẽ góp phần làm cho nỗi đau của khách biệt ly thêm cô đơn và tê tái, lạnh lẽo.     - Câu 8 tương phản với 7 câu trước. Nhà thơ hỏi (tự nói với mình) “Há có biết người Nam đang ở cảnh biệt ly?”. Người thì hạnh phúc sum họp, còn nhà thơ thì đang sống trong nỗi đau buồn và cô đơn của cảnh biệt ly. Nỗi đau càng được nhân lên nhiều lần trong cảnh ngộ phải đi “dương trình hiệu lực”, tài năng bị dập vùi, công danh bị dở dang, một kẻ sĩ trải qua nhiều cay đắng trên con đường hoan lộ. Chỉ một câu thơ mà nói được bao điều tâm sự. Thật hàm súc và truyền cảm. Kết luận     Bài thơ được viết theo thể “hành” thất ngôn. Ý tại ngôn ngoại. Một cái nhìn mới mẻ. Ý thơ mới lạ. Hình ảnh người thiếu phụ Tây Dương và nỗi buồn đau của khách biết ly là hai nét vẽ đầy ấn tượng. Đúng là “cảnh đấy người đây luống đoạn trường” (Bà huyện Thanh Quan). Bài thơ như thấm đầy lệ của khách ly hương. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc- Nguyễn Đĩnh Chiểu. Tác giả     Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là ngôi sao sáng của nền văn nghệ đất nước ta trong nửa sau thế kỷ 18. Bị mù, vừa dạy học, làm thuốc và viết văn thơ. Sống vào thời kỳ đen tối của đất nước: giặc Pháp xâm lăng, đất Nam Kỳ lần lượt rơi vào tay giặc. Tinh thần nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân và căm thù giặc Pháp xâm lược là những tư tưởng, tình cảm sâu sắc, mãnh liệt trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.     Tác phẩm:     - Truyện thơ: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu, Ngư Tiều y thuật vấn đáp.     - Văn tế: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Văn tế Nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh.     - Thơ: Nhiều bài thơ Đường luật – cảm hứng yêu nước. Xuất xứ, chủ đề     - Cần Giuộc thuộc Long An. Trận Cần Giuộc là một trận đánh lớn của quân ta, diễn ra đêm 14/12 âm lịch (1861). Hơn 20 nghĩa quân đã anh dũng hy sinh. Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Đồ Chiểu viết bài văn tế này. Ngay sau đó, vua Tự Đức ra lệnh phổ biến bài văn tế trong các địa phương khác.     - Bài văn tế ca ngợi những nghĩa sĩ – nông dân sống anh dũng, chết vẻ vang trong sự nghiệp đánh Pháp để cứu dân, cứu nước. Hình ảnh người nghĩa sĩ     1. Nguồn gốc: Nông dân nghèo khổ “cui cút làm ăn”, cần cù lao động “chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ”. Chất phác hiền lành:             “Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;             Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó:     2. Tâm hồn: Yêu, ghét dứt khoát, rõ ràng: “ghét thói mọi như nhà ông ghét cỏ” “đâu dung lũ treo dê bán chó”. Căm thù quyết không đội trời chung với giặc Pháp:             “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,             Ngày xem ống khói chạy đen sĩ, muốn ra cắt cổ”     Yêu nước, yêu xóm làng quê hương, tự nguyện đứng lên đánh giặc: “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, “phen này xin ra sức đoạn kình”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ”     3. Trang bị     - Không phải là lính chính quy của Triều đình, “chẳng phải quân cơ, quân vệ”, chẳng có “bao tấu, bầu ngòi”. Họ chỉ là “dân ấp dân lân”, vì “bát cơm manh áo” mà đánh giặc. Trang bị thô sơ, áo mặt chỉ là “một manh áo vải”, vũ khí là một ngọn tầm vông, một lưỡi gao phay, hoặc “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”     Kẻ thù của họ là mã tà, ma ní, là thằng Tây “bắn đạn nhỏ đạn to”, có “tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.     4. Chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh:     - Dũng mãnh tiến công như vũ bão, “đạp rào lướt tới”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước lũ ó sau”.     - Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, lẫm liệt hiên ngang: “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”.     - Chiến công oanh liệt: “đốt xong nhà dạy đạo kia”, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”, “làm cho mã tà, ma ní hồng kinh”     - Hy sinh đột ngột trên chiến địa: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”.     Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu đã ngợi ca, khâm phục và biết ơn các nghĩa sĩ. Ông đã dựng lên một tượng đài bi tráng về người nông dân đánh giặc cứu nước trong buổi đầu giặc Pháp xâm lăng đất nước ta. Tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ     “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hàm chứa những tình cảm đẹp, tư tưởng rất tiến bộ của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.     - Ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần tự nguyện đánh giặc để cứu nước của các nghĩa sĩ. Khẳng định vị trí và vai trò của người nông dân trong lịch sử chống xâm lăng vì độc lập, tự do của Tổ quốc.     - Tiếc thương những nghĩa sĩ đã anh dũng hy sinh (câu 18, 25)     - Khẳng định một quan niệm về sống và chết: chết vinh còn hơn sống nhục. Không thể “theo quân tà đạo”, “ở lính mã tà” đánh thuê, làm bia đỡ đạn, sống cuộc đời bán nước cầu vinh “chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ”. Trái lại, phải sống anh dũng, chết vẻ vang: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia”.     - Tự hào về các nghĩa sĩ đã bỏ mình vì Tổ quốc. Tên tuổi họ, tinh thần họ bất tử: “danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen”, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm” Tóm lại, lần đầu tiên trong nền văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc hoạ và ca ngợi người nông dân Nam Bộ và những anh hùng thời đại đã sống, chiến đấu và hy sinh vì đại nghĩa. Nghệ thuật     1. Ngôn ngữ bình dị như cách nói, cách nghĩ và cách cảm của nhân dân miền nam. Các kiểu câu tứ tự, song quang, cách cú, gối hạc, câu nào cũng đặc sắc, khô ứng, đối chọi cân xứng đẹp.     2. Chất chữ tình kết hợp với chất anh hùng ca tạo nên màu sắc bi tráng.     3. Hình tượng người chiến sĩ nghĩa quân được khắc họa tuyệt đẹp trong tư thế lẫm liệt hiên ngang.     Có thể nói, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một bài ca yêu nước chống xâm lăng, là kiệt tác trong kho tàng văn tế cổ kim của dân tộc Xúc cảnh             Nguyễn Đình Chiểu Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông, Chúa xuân đâu hỡi có hay không? Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn, Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng. Bờ cõi xưa đà chia đất khác, Nắng sương nay há đội trời chung. Chừng nào Thánh đế ân soi thấu. Một trận mưa nhuần rửa núi sông     Bài thơ “Xúc cảnh” còn có một cái tên khác nữa: “Ngóng gió đông”. Cái tên ấy do người đời sau đặt ra. Vốn là lời cảm khái của nhân vật Đường Nhập Môn trong truyện thơ “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”. Mượn chuyện chữa bệnh cứu người, Nguyễn Đình Chiểu kín đáo gửi gắm nỗi niềm tâm sự u uất về vận nước và cảnh lầm than của dân tộc. Tác giả viết     “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” trong những năm cuối của đời mình, và sau khi đất Lục tỉnh Nam kỳ đã rơi trọn vào tay giặc Pháp.     “Xúc cảnh” là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú mang vẻ đẹp toàn bích, cổ kính và trang nghiêm. Qua một hệ thống “tượng trưng” với những “ẩn dụ”, nhà thơ mù Gia Định đã bày tỏ một cách cảm động nỗi đau vong quốc và ước mong phục quốc khi đồng bào và quê hương “đều mắc hại cùng cờ ba sắc”.     1. Hai câu đề là mọt nỗi chờ mong: “Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông, Chúa xuân đâu hỡi có hay không?”     Hoa cỏ đang tàn lụi mong ngóng gió đông (gió mùa xuân) thổi về được hồi sinh.     Chúa xuân – chúa của muôn loài có thấu nỗi chờ mong ấy? Câu hỏi tu từ diễn tả nỗi khắc khoải ngóng trông, có ít nhiều trách móc, vì ngóng mãi trông hoài rồi. Câu thơ mang hàm nghĩa. Hoa cỏ là một ẩn dụ, là một cách nói của nho gia, của các nhà thơ xưa, chỉ sĩ phu và dân chúng. “Ngùi ngùi là buồn lặng, buồn lâu, là sự héo hon tàn lụi. Có ngóng có trông đã nhiều ngày đêm mới có tâm trạng “ngùi ngùi” đau đáu ấy. Chúa xuân là ai? Ở đâu và có hay không? Chúa xuân được nói rõ ở câu 7, ấy là Thánh đế, trong tâm hồn nhà thơ là một ông vua lý tưởng, ra tay dẹp loạn, cứu nước yên dân. Hai câu đầu gợi tả cảnh tang thương của đất Nam Kỳ và nỗi đau thương khắc khoải chờ mong của đồng bào Lục tỉnh, mà tác giả nhiều lần nói tới: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc), hoặc: “Cỏ cây đưa nhánh đón đường – Như tuồng muốn hỏi Đông Hoàng ở đâu?” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp). Vần thơ tuy chỉ nói hoa cỏ nhưng tràn ngập tình cảm thương xót nhân dân lầm than. Đó là chất thơ thâm trầm, đậm đà màu sắc cổ điển.     2. Phần thực mở rộng và khắc sâu ý thơ “ngóng gió đông” ở hai câu đề: “Mây giăng ải Bắc trông tin nhạn, Ngày xế non Nam bặt tiếng hồng.”     Ải Bắc thì “mây giăng” mù mịt. Trông mãi trông hoài một tin nhạn – một đạo hùng binh từ ải Bắc kéo vào. Nhưng ở non Nam, chờ đợi mãi, bao tháng bao ngày đã trôi qua, ngày đã “xế” trong cảnh hoàng hôn vẫn “bặt tiếng hồng”. Ải Bắc và non Nam là hai miền đất nước, là xứ sở quê hương. Nhạn và hồng (ngỗng trời), trong thi văn cổ, là loài chim đưa tin, là biểu tượng cho tin tức. “Trông tin nhạn” với “bặt tiếng hồng” đối nhau làm nổi bật sự ngóng và trông đến tuyệt vọng. Đó là nỗi lòng của đồng bào Lục tỉnh và thảm cảnh của đất nước ta trước và sau năm 1884. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ mù đầy mẫn cảm. Trong thơ ông, những từ như “ngóng”, “trông”, “chừng nào”, “đợi”, mang nhiều ám ảnh và đầy tâm trạng:             “Nhớ câu vạn bệnh hồi xuân,             Đôi ngày luống đợi Đông quân cứu đời”                                                 (Ngư Tiều y thuật vấn đáp)     Nguyễn Đình Chiểu còn “trông tin nhạn”, còn “luống đợi Đông quân cứu đời”, nhưng hơn 20 năm sau, Yên Đổ thao thức giữa đêm thu và bồn chồn; ngơ ngác hỏi: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?” (Thu vịnh).     3. Giọng thơ từ thương cảm nghẹn ngào ở 4 câu đầu chuyển thành căm thù uất hận, vang lên như một lời thề nung nấu. Cách ngắt nhịp 3–4 tạo thành một biến tấu đầy rung động:             “Bờ cõi xưa/ đà chia đất khác             Nắng sương nay/ há đội trời chung”     “Bờ cõi xưa” là Tổ quốc ngàn đời” đã chia đất khác”, đã bị quân thù giày xéo, đã bị Triều đình cắt cho giặc Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi cắt nốt 3 tỉnh miền Tây, dâng nộp cho chúng. “Nắng sương” là ngày, đêm. “Há” - tiếng cổ, nghĩa quyết không thể. “Há đội trời chung” là quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Cũng là cách nói truyền thống biểu lộ một tinh thần quyết tử trong thơ văn cổ. Trong phần luận bài thơ này là một lời thề trang nghiêm. Trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, ông đã nguyền: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia”. Thái độ quyết liệt ấy còn được thể hiện ở sự chối từ của nhà thơ khi chính quyền thực dân hứa trả lại ruộng cho ông, ông đã dứt khoát bảo chúng: “Đất chung còn bị mất, đất riêng còn có được sao?”. Thái độ quyết không đội trời chung với giặc của Nguyễn Đình Chiều, của các chiến sĩ yêu nước mãi mãi là bài học về lòng trung nghĩa cho mỗi chúng ta.     4. Nếu ở câu 1 là “ngóng gió đông”, câu 3 là “trông tin nhạn”, thì câu 7 là một tiếng hỏi, một lời chất vấn, là một sự mong đợi: “Chừng nào Thánh đế ân soi thấu. Một trận mưa nhuần rửa núi sông”     Câu thứ 2 hỏi: “Chúa xuân đâu hỡi có hay không?”, hỏi bằng một ẩn dụ. Câu 7 hỏi trực tiếp. “Thánh đế” tức là hỏi vua. Đằng sau câu hỏi là một lời trách nhà vua chưa “soi thấu”, chưa hết lòng vì nước vì dân. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, cho nên trong cảnh “súng giặc đất rền”, tâm hồn ông trước sau vẫn hướng về một “Thánh đế”, một “Đông quân”, một “Đông hoàng”. Vua đã phản bội đầu hàng rồi, còn đâu “Thánh đế” nữa? Đó là một hạn chế của thời đại mà Nguyễn Đình Chiểu một nhà nho khó lòng vượt qua.     Câu thứ 8, niềm mơ ước được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ “một trận mưa nhuần”. Trận mưa ấy “rửa núi sông”, rửa sạch hận thù, rửa sạch nỗi đau, nỗi nhục mất nước, rửa sạch “mùi tinh chiên vấy vá” mùi dơ bẩn của loài dê chó, của lũ sài lang. Đất nước trở lại thanh bình, hoa cỏ được hồi sinh, nhân dân sống trong yên vui hạnh phúc là mơ ước của ông.     Tóm lại, “Xúc cảnh” là một bài thơ tuyệt bút. Một hệ thống ẩn dụ tượng trưng tạo nên tính đa nghĩa của bài thơ. Nỗi niềm chờ trông, mong đợi, một quyết tâm không đội trời chung với giặc, lúc cảm thương, khi căm giận, giọng điệu đa thanh, biến hóa vô cùng xúc động. “Xúc cảnh” đích thực là một bài ca yêu nước, thể hiện tâm hồn trung nghĩa của nhà thơ mù miền Nam mãi mãi vằng vặc như sao Bắc đẩu. Khóc Dương Khuê Tác giả     Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), người Yên Đổ, Bình Lục, Hà Nam. Nhà nghèo, rất hiếu thảo, học giỏi và có chí lớn. Đỗ đầu ba kỳ thi, được người đời ái mộ gọi là “Tam nguyên Yên Đổ”. Làm quan dưới triều Nguyễn. Yêu nước nhưng bất lực trước thời cuộc, cáo quan về quê, không cam tâm làm tôi tớ - tay sai cho thực dân Pháp.     Tác phẩm: Còn để lại trên 800 bài thơ nôm và thơ chữ Hán, vài chục câu đối nôm. Thơ Nguyễn Khuyến bình dị mà điêu luyện, mộc mạc mà thâm trầm, hóm hỉnh. Ông là nhà thơ của làng quê. Một hồn thơ thanh cao, chứa chan nghĩa tình đối với quê hương, gia đình, bằng hữu. Những bài thơ thu, những bài thơ viết về vợ con, tình bạn là hay nhất, cảm động nhất. Nguyễn Khuyến là nhà thơ nôm kiệt xuất của đất nước ta. Xuất xứ     Dương Khuê (1839 – 1902) vị đại quan của triều Nguyễn. Là nhà thơ để lại một số bài thơ hát nói tuyệt tác. Là bạn đồng khoa, rồi trở thành bạn tri kỷ của Nguyễn Khuyến.     Năm 1902, Dương Khuê qua đời, Nguyễn Khuyến viết bài thơ chữ Hán, nhan đề “Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư”, sau đó tác giả tự dịch ra chữ Nôm thành bài “Khóc Dương Khuê” bằng thơ song thất lục bát gồm có 38 câu thơ. Chủ đề     Đau xót và thương tiếc bạn, khi bạn đột ngột qua đời. Nhớ lại những kỷ niệm đẹp của một tình bạn đẹp, càng cảm thấy cô đơn và đau đớn hơn bao giờ hết. Phân tích     1. Bạn thân qua đời đột ngột. Được tin đau đớn bàng hoàng:             “Bác Dương thôi đã thôi rồi             Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”     Bốn tiếng “thôi đã thôi rồi” thốt lên như bất ngờ đánh rơi mất một cái gì vô cùng thiêng liêng. Nỗi đau xót ngậm ngùi thấm sâu từ lòng ta, mà tỏa rộng khắp “nước mây man mác” bao la. Ngôn ngữ bình dị mà tiếng khóc lâm ly thấm thía. Thật vô cùng điêu luyện.     2. Nhớ từ thuở      Giờ đã âm dương đôi đường cách trở, nhưng những kỷ niệm đẹp ngày nào vẫn nhớ mãi không nguôi. Nhớ kỷ niện xưa là thương tiếc bạn vô cùng, là tự hào về một tình bạn đẹp, thủy chung. Tuổi già khóc bạn nên mới kể lể như vậy:     - Nhớ ngày đỗ đạt, thành đôi bạn đồng khoa, biết mấy tự hào:             “Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,             Vẫn sớm hôm tôi với bác cùng nhau”     - Nhớ những lần du ngoạn thảnh thơi:             “Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,             Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo”     - Nhớ khi đàm đạo văn chương tâm đầu ý hợp. Một chén rượu, một cung đàn, một điệu hát nhớ mãi bạn tao nhân tri âm ở đời:             “Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,             Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.             Có khi bàn soạn câu văn,             Biết bao đông bích điển phần trước sau”     - Cùng chung hoạn nạn. Cùng chung tuổi già. Ba chữ “thôi” như một tiếng thở dài ngao ngán:             “Bác già tôi cũng già rồi             Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!”     - Kỷ niệm cuối cùng đôi bạn già gặp nhau. Nhiều mừng vui bịn rịn. Phảng phất lo âu. Xúc động bồi hồi. Bạn đã mất rồi mà nhà thơ tưởng như bạn còn hiển hiện:             “Cầm tay hỏi hết xa gần,             Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”     3. Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời      - Bạn đã mất rồi. Tin buồn đến quá đột ngột. Đau đớn cực độ như chết đi nửa con người. Không thể nào tin được “sự việc” đã xảy ra. Vừa bàng hoàng ngạc nhiên vừa tái tê đau đớn! Nhà thơ như tự hỏi mình:             “Làm sao bác vội về ngay             Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời”     - Trách bạn “Vội vàng chi đã mải lên tiên”. Cảm thông với nỗi “chán đời” của bạn vì tuổi già lại ốm đau, Bạn “lên tiên” để nhà thơ ở lại cõi trần, trở nên cô đơn lẻ bóng. Với Nguyễn Khuyến nỗi đau như nhân lên nhiều lần: vợ mất, con chết, nay bạn tri âm lại qua đời. Cuộc sống mất hết niềm vui và trở nên vô nghĩa. Nhà thơ nhắc lại 2 điển tích về Bá Nha và Chung Tử Kỳ (đàn kia), về Trần Phồn và Từ Trĩ (giường kia) để diễn tả nỗi buồn bơ vơ, cô đơn, lẻ bóng. Đây là 6 câu thơ hay nhất trong bài được nhiều người hau nhắc đến khi nói về tình bạn. Có 6 chữ “không”, 2 từ láy: “hững hờ”, “ngẩn ngơ” – cho thấy nghệ thuật sử dụng ngôn từ cực kỳ điêu luyện, thơ liền mạch – của Tam nguyên Yên Đồ:             “Rượu ngon không có bạn hiền,             Không mua không phải không tiền không mùa             Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,             Viết đưa ai ai biết mà đưa.             Giường kia treo những hững hờ,             Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn”     - Nỗi đau đớn, tiếc thương bạn không thể nào kể xiết. Nhà thơ như “lặng” đi. Tuổi già vốn ít lệ. Chỉ biết khóc bạn trong lòng:             “Tuổi già hạt lệ như sương,             Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”     Câu thơ chữ Hán diễn tả ý thơ này, nỗi đau như nén lại:             “Lão nhân khốc vô lệ,             Hà tất cưỡng nhi liên”     Nghĩa là: Người già khóc không nước mắt – Cac chi mà cố gượng cho (nước mắt) giàn giụa ra. Kết luận     “Khóc Dương Khuê” là bài thơ hay nhất, cảm động nhất nói về một tình bạn đẹp, thắm thiết, thủy chung của 2 nhà nho, 2 nhà thơ một trăm năm về trước. Nguyễn Khuyến khóc bạn cũng như đang tự khóc mình. Thể thơ song thất lục bát giàu âm điệu trầm bổng, réo rắt đã góp phầ

File đính kèm:

  • docSổ tay văn học lớp 11.doc