Những bài văn chọn lọc lớp 10 chương trình phân ban

Từ năm học 2006 - 2007, tất cả các trường Trung học phổ thông bắt đầu thực hiện đại trà Chương trình phân ban.

 Việc dạy và học môn Ngữ Văn có những điểm thay đổi cơ bản sau đây :

Thứ nhất, các loại văn bản được học theo cách "đọc hiểu". Ngoài việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết còn tập trung rèn luyện hai năng lực phân tích và cảm thụ. Nhất là cảm thụ văn bản văn học.

Thứ hai, phần viết bài văn (xây dựng văn bản), chương trình lớp 10 học sinh phải tạo được các kiểu :

+ Cảm nghĩ về đời sống, về văn học

+ Kể chuyện có yếu tố miêu tả và biểu cảm

+ Tóm tắt văn bản tự sự

+ Kể chuyện có yếu tố hư cấu

 

doc104 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 468 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Những bài văn chọn lọc lớp 10 chương trình phân ban, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lưu Đức Hạnh (Chủ biên) Lưu Tuyết Hiên - Nguyễn Mai Hương - Lê Văn Khải Trịnh Trọng Nam - Trịnh Duy Tuân - Nguyễn Anh Thơ ( Nguồn: ). NHỮNG BÀI VĂN CHỌN LỌC LỚP 10 CHƯƠNG TRÌNH PHÂN BAN Nhà xuất bản LỜI NÓI ĐẦU Từ năm học 2006 - 2007, tất cả các trường Trung học phổ thông bắt đầu thực hiện đại trà Chương trình phân ban. Việc dạy và học môn Ngữ Văn có những điểm thay đổi cơ bản sau đây : Thứ nhất, các loại văn bản được học theo cách "đọc hiểu". Ngoài việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết còn tập trung rèn luyện hai năng lực phân tích và cảm thụ. Nhất là cảm thụ văn bản văn học. Thứ hai, phần viết bài văn (xây dựng văn bản), chương trình lớp 10 học sinh phải tạo được các kiểu : + Cảm nghĩ về đời sống, về văn học + Kể chuyện có yếu tố miêu tả và biểu cảm + Tóm tắt văn bản tự sự + Kể chuyện có yếu tố hư cấu + Thuyết minh (giới thiệu) về đời sống và văn học từ chính xác đến hấp dẫn. Cuốn sách này được biên soạn bám sát chương trình Ngữ Văn 10 nhằm giúp học sinh nâng cao năng lực phân tích , cảm thụ văn học và tạo lập các văn bản theo kiểu loại mà chương trình yêu cầu. Rất mong các em sử dụng sách có hiệu quả. CÁC TÁC GIẢ Đề số 1 Đức tính trung thực Bài làm Không trung thực là một hiện tượng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống, nó đã và đang diễn ra quanh ta, nhất là trong lớp trẻ. Nó trở thành một cách sống phổ biến. Vậy trung thực là gì ? Trung thực là luôn tôn trọng sự thật, tôn trọng chân lí, lẽ phải, sống ngay thẳng, thật thà và dũng cảm nhận lỗi khi mắc khuyết điểm. Người trung thực là người thật thà, ngay thẳng chân thành trong cách đối xử với mọi người, luôn nhìn nhận khách quan về các sự việc trong cuộc sống, luôn tôn trọng và bảo vệ chân lí, bảo vệ lẽ phải. Do vậy, ngay từ tuổi ấu thơ, tuổi học trò, chúng ta cần được và tự bản thân xây dắp, rèn luyện tính trung thực. Nhưng đây đó vẫn còn nhiều hiện tượng học sinh thiếu trung thực. Cứ nhìn vào các giờ kiểm tra, các kì thi cử, hay tự hỏi, mình đã một lần nói dối bố mẹ, thầy cô giáo chưa là rõ. Ấy thế mà nhiều bạn còn rủ rê nhau, bao che cho nhau. Ngoài xã hội cũng vậy. Trong kinh doanh, trong công việc, trong chính trị họ vẫn thường lợi dụng lòng tin của mọi người để trục lợi cá nhân, lừa đảo kiếm tiền hay tham nhũng, che giấu tội ác trước pháp luật. Một dẫn chứng điểm hình dễ thấy nhất là trong khi nhà nước đang phải bồi thường cho người dân mang gà đi tiêu huỷ thì tại Đông Anh - Hà Nội các cán bộ đã khai khống lên đến hàng nghìn con gà, vịt các loại. Họ là những cán bộ đại diện cho dân, cho nước mà lại thiếu trung thực. Rồi gian lận thuế, ăn cắp bản quyền, khai tăng thiệt hại hay thành tích, xử án gian lận, dối trên lừa dưới... Không trung thực chính là nguyên nhân, mầm mống của các tiêu cực xã hội, gây băng hoại đạo đức, làm mất lòng tin, xói mòn đời sống tốt đẹp mọi người đang chung tay xây đắp. Bởi vậy cần phải trung thực, không vì cái lợi trước mắt mà bán rẻ lương tâm. Nhất là những người cầm quyền phải là người chí công vô tư, cương trực, thẳng thăn thì mới đưa đất nước vững mạnh đi lên, tiến tới công bằng, dân chủ, văn minh. Rồi trong các mối quan hệ hợp tác sản xuất kinh doanh, tính trung thực sẽ giúp có được lòng tin ở mọi người, từ đó có uy tín trong sản phẩm. Thiếu trung thực sẽ gây ra hậu quả không thể lường trước được. Những tai biến xã hội từ nạn làm hàng giả hay ngộ độc thực phẩm, bằng cấp giả...hẳn ai cũng thấy. Tính trung thực cần được chú trọng giáo dục, rèn luyện ngay từ những ngày còn cắp sách tới trường mà điểm đầu rèn luyện là thành thực với chính bản thân mình. Bởi vì, “Phải thành thật với mình, có thể mới không dối trá với người khác” (Uy-li-am Sếch-xpia). Trung thực là cốt lõi, xoay quanh nó còn nhiều đức tính khác mà quan trọng nhất là thái độ thẳng thắn, tinh thần, hành động dũng cảm. Không có đức tính này, trung thực chỉ như của quý bị dấu kín. Thảng thắn, dũng cảm lại phải chân thành, khéo léo. Nêu không trung thực - thẳng thắn - dũng cảm sẽ không có tác dụng hoặc bị hạn chế tác dụng. Ta nên rút ra một điều : rèn luyện tu dưỡng các tính tốt là rất cần nhưng thể hiện nó trong xử thế còn quan trọng hơn. Chẳng hạn, không nhất thiết ta phải thể hiện rõ, đôi lúc ta cũng phải có ứng xử khéo léo để tránh cho người khác nỗi đau đớn về một sự thật phũ phàng nào đó. Nói như vậy có nghĩa là ta không cần phải cứng nhắc, rập khuôn mà phải biết cư xử sao cho hợp lí, hợp tình. Đức tính trung thực là điều mà con người, nhất là con người trong xã hội hiện đại cần phải có, cần phải được rèn luyện. Vậy sao ta không rèn luyện nó ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để khi ra đời ta sẽ xem nó là một trong những điều cần thiết nhất để bước vào cuộc sống hiện đại ngày nay. Đề số 2 Lòng biết ơn thầy cô giáo Bài làm “Không thầy đố mày làm nên”, một triết lí dân gian đã được lưu truyền từ bao đời nay. Điều này cho chúng ta thấy người thầy có vai trò to lớn đối với con đường học vấn của mỗi học trò. Dẫu là học trò bán tự, nhất tự (có câu "nhất tự vi sư, bán tự vi sư" - một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy), huống hồ chi, chúng ta, trong đời ai chẳng là học trò hơn một lần "nhất tự" hiểu theo nghĩa rộng của khái niệm này. Nhưng điều tôi muốn nói đến ở đây là một mặt khác nữa của câu tục ngữ - Đó cũng là lời nhắn nhủ, khuyên răn chúng ta phải nhớ ơn thầy cô. Mỗi người có được công danh, sự nghiệp thành đạt đều nhờ công ơn dạy dỗ của thầy cô. Những người chiến sĩ trong cuộc chiến sinh tử với giặc ngoại xâm, trong hành trang tinh thần mang ra mặt trận cũng có lời thầy cô. Chúng ta, hẳn đã nhiều người đọc nhật kí của anh Nguyễn Văn Thạc (Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản dưới nhan đề Mãi mãi tuổi hai mươi) học sinh trường cấp 3 (THPT) Yên Hòa B - Từ Liêm, Hà Nội. Trang nhật kí ngày 24/5/1972, ghi trước khi anh hi sinh tại chiến trường Quảng Trị hai tháng, bảy ngày sau đó, người học trò này đã nhớ lời dạy thầy giáo cũ - thầy Lưu, và nói rằng, cho đến lúc này, anh mới hiểu hết lời dạy của thầy. Xin được trích đoạn nguyên văn "Lòng tin tưởng ở con người cũng chính là một nét riêng rất độc đáo của lòng nhân đạo - Điều này thầy Lưu đã nói rất nhiều lần với mình từ 3 năm trước, từ hơn 2 năm trước - Nhưng đến giờ mình mới hiểu một cách sâu xa và đầy đủ nhất". Người học trò Nguyễn Văn Thạc hiểu và xác định đúng đắn lẽ sống của đời mình. "Có thể ngày mai, cuộc đời sẽ trả lời mình bằng luồng gió lạnh ngắt, nhưng có hề chi, khi mình đã cống hiến cho cuộc dời một tâm hồn chính trực và cao cả - Biết yêu và biết ghét - Biết lăn lộn trong cái bình dị của cuộc sống mà cảm hiểu hạnh phúc không có gì so sánh nổi. Biết sống cao thượng, vươn lên trên tất cả những những gì tính toán cá nhân mòn mỏi và cằn cỗi. Phải, mình phải sống như vậy, phải cống hiến cho cuộc đời một tâm hồn như thế - Đây là mơ ước, là nguyện vọng, quyết tâm và cũng là trách nhiệm mình phải làm. Phải làm". Chính vì thế ta không thể quên được công ơn của thầy cô. Thầy cô giáo là người hướng dẫn, bồi dưỡng, truyền đạt cho ta những kinh nghiệm mà nhân loại đã tích luỹ trong suốt quá trình lịch sử lâu dài về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và kinh nghiệm sống để mở rộng trí óc cho chúng ta. Thầy cô không chỉ cho chúng ta tri thức mà còn rèn luyện cho chúng ta bài học làm người. Lúc còn bé thơ thầy cô dạy ta từng chữ cái, từng con số, rồi theo năm tháng chúng ta dần lớn lên thầy cô dạy ta những điều hiểu biết cao hơn, rộng hơn để giáo dục ta thành người có tri thức, có đạo đức. Các thầy cô đã “Vì lợi ích trăm năm trồng người”, đào tạo chúng ta thành những người hữu ích. Tại sao danh họa Ý Lê-ô-na đơ Vanh xi (1452 - 1519) có thể trở thành đỉnh cao của thời Phục hưng và thế giới. Vì ông có người thầy là họa sĩ Vê-rô-ki-ô. Thoạt đầu thầy bắt cậu bé học trò vẽ quả trứng gà mấy chục ngày liền. Bởi ông muốn cho nhà họa sĩ thiên tài tương lai biết "trong một nghìn cái trứng, không bao giờ có hai cái hoàn toàn giống nhau...Do vậy nếu không cố công luyện tập thì không vẽ đúng được đâu...Đó còn là cách luyện mắt cho tinh, luyện tay cho dẻo". Các thầy cô giáo là người "mài sắt nên kim", công lao biết bao ! Thật đúng như nhà thơ Bùi Đăng Sinh, hiện nay đã là nhà giáo kì cựu, lúc còn ngồi trên ghế nhà trường đã viết : “Đồi cao thắm sắc ti gôn Trồng hoa thầy đã trồng luôn cả người” Các thầy, các cô đang làm một nghề cao quý nhất, nghề dạy học, nghề mà dân tộc ta vốn rất coi trọng, quan tâm và biết ơn. Ông cha ta thường nói : “Muốn sang thì bắc cầu kiều Muốn con hay chữ phải yêu kính thầy” Vì học sinh thân yêu, các thầy giáo, cô giáo đã luôn luôn quan tâm đến sự tiến bộ, vui sướng trước sự trưởng thành của chúng ta, trăn trở trước thiếu sót mà chúng ta mắc phải. Từ cái nôi là nhà trường, tình cảm gắn bó giữa chúng ta và các thầy cô là một tình cảm đặc biệt, sâu sắc. Tình cảm đó sẽ cùng đi suốt cuộc đời, động viên, nâng đỡ chúng ta trưởng thành. Mọi người chúng ta phải khắc ghi và biết ơn. Phải ghi nhớ trong lòng, đạo thầy trò là một trong những đạo lớn, giữ cho xã hội lành mạnh, vững chắc. Lại xin kể với các bạn một câu chuyện mà nhân vật học trò hiện vẫn đang sống và là một nhà thơ nổi tiếng của chúng ta. Chuyện của nhà thơ Hoàng Cầm, thi sĩ yêu thương của miền Kinh Bắc, cái nôi của văn hóa Việt Nam. Nhà thơ đã làm cho con sông Đuống thành dòng sông trữ tình, dòng sông thi ca. Năm học 1935 - 1936, Hoàng Cầm học với thầy Hoàng Ngọc Phách, cũng là một nhà văn (tác giả Tố Tâm, thiên tiểu thuyết lãng mạn vào loại mở đầu văn chương lãng mạn). Ai ngờ sau đó ít lâu, lại lấy chị gái họ thầy giáo mình. Một ngày tết ở thị xã Bắc Ninh, khi hai vợ chồng thi sĩ đi chúc tết họ hàng, vào nhà thầy, theo tôn ti trật tự, thầy cứ một điều "thưa bác", hai điều "thưa bác". Vợ nhà thơ cũng thản nhiên "cậu câu, tôi tôi" mặc dù kém đến trên 20 tuổi. Song Hoàng Cầm thì không dám. Ông lễ phép xưng "con", gọi "thầy". Về nhà, bà vợ phàn nàn : - Sao mình lại xưng "con" với cậu ấy ? Cậu ấy là em mình chứ ! Hoàng Cầm đã quả quyết trả lời : - Anh phải tôn trọng cái điều có trước. Trước khi anh là chồng em, anh đã là học trò của ông Phách từ lâu rồi. Người thầy giáo ấy đã có công lớn đào tạo được ra anh hôm nay đấy em ạ ! Lòng biết ơn thầy cô là phải biết giữ đúng "Đạo". Nhưng cao hơn, phải được thể hiện bằng hành động cụ thể. Muốn vậy chúng ta phải học tập tốt, đạt nhiều thành tích cao. Đây cũng chính là đạo lí làm người, là cách ứng xử của người có nhân cách. Đất nước ta có rất nhiều tấm gương đáng để noi theo như người học trò con vua Thủy Tề của thầy Chu Văn An. Biết là trái mệnh Ngọc Hoàng, tất bị chết chém, nhưng vẫn tuân theo lời dạy bảo nhân nghĩa của thầy. Bác Hồ từng dạy : “Kẻ có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Nền tảng của con người vẫn là đạo đức, đạo đức kết hợp với tài năng thì làm chuyện gì cũng thành công. Xã hội hiện đại ngày nay, vấn đề đạo đức đang còn nhiều cái để quan tâm, đó là tình trạng học sinh vô lễ, vô ơn bạc nghĩa với thầy cô. Thậm chí có hành vi lăng mạ, côn đồ. Tất cả đều bị chê trách, lên án gay gắt. Trong bối cảnh như thế, thiết nghĩ, lòng biết ơn là món quà giá trị nhất, là bông hoa tươi thắm nhất để các thế hệ học sinh dâng tặng thầy cô kính yêu. Đây không phải chỉ là bổn phận và nghĩa vụ mà còn là thứ tình cảm cao quí, thiêng liêng, ở đâu, lúc nào cũng cần gìn giữ, nêu cao. Đề số 3 Xin mẹ hãy yên tâm Bài làm Con đã mười lăm tuổi rồi mẹ ơi, đã lớn khôn, con biết rằng mẹ rất lo lắng cho con khi con đi đâu, nhưng mẹ ơi, con biết mình phải làm gì khi không có bố mẹ ở bên và “xin mẹ hãy yên tâm về con”. Tôi có một người mẹ tuyệt vời, mẹ rất khéo tay, mẹ nấu ăn cũng khá ngon. Nhưng tôi không được lấy một phần của mẹ. Con gái lớn rồi mà tôi rất vụng về, trước khi làm việc gì mẹ cũng dặn tôi cặn kẽ. Lúc nào mẹ cũng lo lắng vì ở cái tuổi đang phát triển, cái tuổi dậy thì, mẹ sợ sức khoẻ bị giảm sút, tình cảm chông chênh, suy nghĩ chưa chín chắn ảnh hưởng tới học tập. Rồi mẹ sợ, đời sống phát triển, càng ngày phương tiện giao thông càng tấp nập, đẽ bị tai nạn. Mẹ không yên tâm, dạo đầu, mỗi khi phải đi học xa, tôi đạp xe đi trước, mẹ xe máy theo sau. Lâu dần, tôi thạo đường mẹ không kèm tôi nữa, nhưng tranh thủ, mẹ vẫn thường ghé vào chỗ tôi học. Có những hôm tôi học về khuya, mẹ lo không ngủ được, ngồi ở ghế chờ tới khi tôi về nhà mới im lặng ngả lưng. Nhưng con người tôi quá vô tâm, về nhà một cái, chào mẹ là chạy tót lên tầng, tôi cũng chẳng để ý tâm trạng mẹ như thế nào. Cứ thế ! Lại có lần mẹ nói gì đó, khi tôi đang làm bài tập khó quá, hình như mẹ hỏi chìa khoá để ở đâu. Tôi gắt lên với mẹ "mẹ tìm đi sao cứ hỏi con nhiều thế !". Mẹ không nói gì, thui thủi một mình đi xuống nhà. Thực ra tôi cũng biết làm mọi việc, chỉ không cẩn thận được như mẹ thôi. Cái chính là có mẹ làm hết nên tôi ỷ lại, đâm ra lười. Còn nhớ, tháng trước, hôm sinh nhật cái Hảo, bạn thân của tôi, Tôi xin đi, mẹ đồng ý, trước khi đi mẹ dặn tôi nào là về sớm, nào là đi đường cẩn thận, không được la cà. Tiệc sinh nhật thật vui, nhưng nhớ lời mẹ dặn, tôi đã xin phép ra về . Ai ngờ, giữa đường xe bị thủng xăm, dắt bộ một quãng mới có hiệu sửa xe. Về đến nhà đã khoảng 10h15’, mồ hôi nhễ nhại, tôi vào nhà, không thấy mẹ chờ tôi như mọi khi. Chắc mẹ giận, tôi mở cửa rồi lẳng lặng lên phòng như mọi khi, cũng sợ mẹ mắng. Nhưng rồi mẹ gọi xuống, dặn ngày mai giúp mẹ làm bữa sáng cho cả nhà vì mẹ cảm thấy khó chịu trong người. Mặt tôi xị ngay ra. Mẹ liền bảo "nếu con cảm thấy không làm được thì thôi”. Tôi không nói một lời nào. Đêm ấy tôi chẳng ngủ được, sao mẹ không trách, chắc mẹ không thương mình nữa vì mình không về đúng giờ, không chăm sóc mẹ lúc ốm đau. Tôi nhớ có hôm bác Hiền gần nhà sang chơi kể chuyện bác ốm chị An chăm sóc rất chu đáo mẹ nghe, nét mặt buồn buồn. Nhưng mẹ không nói ra chắc mẹ giữ thể diện cho tôi. Nghĩ thế, tôi thấy hối hận. Tôi quyết định dậy sớm làm bữa sáng để chuộc lỗi với mẹ. Đêm nay đối với tôi dài dằng dặc như một năm đã trôi qua. Sáng tôi cố dậy thật sớm để giúp mẹ, tôi sững sờ cả người thấy mẹ đã làm xong, tôi trách mẹ sao mẹ không để cho con làm. Mẹ lại bảo, vẫn như những lần trước : Con thì biết làm gì. Nhưng tôi muốn chứng minh cho mẹ thấy tôi có thể làm được. Ngay buổi sáng hôm đó, đi học về sớm, tôi đã nấu bữa trưa với một sự cố gắng cật lực. Khi mẹ về cơm nước nấu xong, có điều cái bếp thành một bãi chiến trường. Không ngờ, mẹ ôm tôi và khóc : con gái mẹ đã lớn thật rồi. Thế rồi, hai mẹ con tôi vừa dọn dẹp vừa nói chuyện. Tôi hỏi mẹ có giận tôi không, mẹ chỉ cười, bảo : sao mẹ lại giận con được chứ. Tôi hỏi, con làm gì cũng sai mà mẹ chẳng trách móc. Mẹ nói : mẹ biết con sẽ biết lỗi và sửa chữa, vì mẹ sinh ra con mà. Rơm rớm nước mắt, tôi cố hỏi thêm. Tại sao khi con gắt mẹ, mẹ không nói gì. Mẹ giải thích vì ở tuổi tôi tính khí thất thường, ở tuổi này con người hay phạm phải những sai lầm không trách được. Tôi oà lên khóc, mẹ ôi sao mẹ tốt với con vậy, mẹ bảo vì mẹ là mẹ của con. Tôi ôm chầm lấy mẹ, mẹ lau nước mắt cho tôi, tôi nói lí nhí : Mẹ ơi ! Xin mẹ hãy yên tâm, con sẽ làm tất cả để bù đắp lại những gì mẹ đã lo lắng cho con. Mẹ là tất cả của con, là cuộc sống của con, con sẽ cố gắng học tập tốt để xứng đáng là đứa con ngoan của mẹ. Mẹ đã giúp con tỉnh giấc, cảm nhận được giá trị của gia đình và tình mẹ, cảm ơn mẹ nhé. Dù ở đâu hay ở nơi nào con vẫn là con mẹ, nếu ai còn diễm phúc có mẹ ở bên chăm sóc, hãy dành một chút thời gian quý báu của mình cho mẹ, để sau này không phải hối hận. Mẹ ơi mẹ hãy yên tâm, mẹ hãy giữ gìn sức khoẻ, mẹ không phải lo lắng cho con nữa vì con đã lớn rồi. Đề số 4 Cảm nghĩ khi đọc Phò giá về kinh của Trần Quang Khải Bài làm Hào khí Đông A (chiết tự chữ Trần viết theo Hán tự) khởi phát bởi chiến thắng đế quốc Nguyên - Mông lần thứ nhất - 1258 đã được khẳng định rực rỡ, hùng hồn bằng các chiến công vang dội trong hai lần đại thắng 1285, 1287 sau đó. Con cháu của những “Người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện Nguyên Phong” đã làm cho kẻ xâm lược hãi hùng ngay cả khi chúng yên ổn về nước - “Nghe tiếng trống đồng mà tóc trên đầu bạc trắng” (Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh). Đó là sức mạnh toàn diện của dân tộc dưới thời nhà Trần trên cơ sở ý thức tự cường, tự chủ. Khí phách hào hùng ấy đã vang động thành cảm hứng yêu nước được biểu hiện một cách tập trung, đa dạng trong thơ văn. Từ một lời hịch thiết tha trước khi lâm trận, bài phú hào sảng, hồi quang mấy chục năm sau đến những tứ tuyệt, những ngũ ngôn 4 câu, 20 chữ ngay trong cuộc chiến. Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một trong những bài như thế. Cuối năm 1284 đầu năm 1285, quân Nguyên- Mông ào ạt tấn công nước ta lần thứ hai. Tình thế đất nước hiểm nghèo, các vua Trần phải dời kinh đô tìm phương kế chống đỡ. Nhưng chỉ qua mùa xuân năm 1285, quân ta đã chuyển thế tấn công. Tháng tư, trong trận đánh tại Hàm Tử, một địa điểm trên sông Hồng tại huyện Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên ngày nay) tướng Trần Nhật Duật đã phá tan đạo quân Thát Đát, bắt sống giặc Ô Mã Nhi. (Trong Đại cáo bình Ngô sau này Nguyễn Trãi nhầm sự việc nên viết “Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô, sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”). Tháng 6, Trần Quang Khải thắng tiếp trận Chương Dương, đuổi đạo quân chủ lực của Thoát Hoan chạy dài lên phía bắc, giải phóng Thăng Long, rước vua Trần trở lại kinh thành. Trong không khí ấy, ông ngẫu hứng cao độ làm nên Tụng giá hoàn kinh sư (Phò xa giá nhà vua về lại kinh đô) danh bất hư truyền. Cùng khoảng thời gian này, vua Trần khi đến tế ở nhà Thái miếu cũng ứng khẩu hai câu : "Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã / Sơn hà thiên cổ điện kim âu". Nghĩa là "Đất nước hai phen bon ngựa đá /Non sông nghìn thủa vững âu vàng", cùng một mạch cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc. Bài thơ chỉ bốn câu, theo lối năm chữ mạch lạc, gọn gàng. Hai câu đầu kể lại hai chiến công hiển hách vừa mới đó, đang còn tươi nguyên không khí chiến thắng. Có nét đặc biệt là trình tự các chiến công không được nêu theo diễn biến thời gian trước sau. Chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Cách trình bày như thế là theo cái lô-gíc của cảm hứng. Trận sau mới hơn và cũng vang dội hơn. Chính nhờ chiến thắng Chương Dương mà Thoát Hoan phải bỏ chạy, Thăng Long được giải phóng. Chính nhờ chiến tháng Chương Dương mà có cái không khí rạo rực phấn chấn trong ngày “về lại thủ đô” này. Lời thơ rất cô đúc, vẻn vẹn mười chữ, nêu hai sự việc là “cướp giáo giặc” và “bắt quân thù”. Song qua hai hình ảnh này người đọc cảm nhận được niềm phấn chấn, hân hoan. Đúng là câu thơ đăng đối bên ngoài đanh chắc, bên trong chứa chan xúc cảm. Cảm xúc theo kiểu cô lại. Sự cô đúc này tạo ra một thế năng, khả năng khơi gợi người đọc suy ngẫm. Một trong những đặc trưng thẩm mĩ của thi pháp cổ là gợi, ít chú trọng kể, tả. Hai câu thơ sau là lời động viên, quyết tâm xây dựng,bảo vệ nền thái bình của giang sơn, đất nước. Nguyên văn : Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san Vẫn trình bày theo lối ngũ ngôn như trước nhưng lại đặt ra một nhiệm vụ, một yêu cầu hoàn toàn mới. Thông thường, sau chiến thắng người ta dễ thoả mãn, dễ say sưa với vinh quang, bỏ lỡ một khoảng thời gian cần thiết chuẩn bị cho tương lai. Trần Quang Khải đã có nhận thức hoàn toàn đúng và đặt vấn đề một cách kịp thời về những công việc thời hậu chiến. Ông hiểu rằng những công việc của một đất nước sau chiến tranh là hết sức bộn bề. Thái độ và hành động ở thời kì thái bình rất cần phải tập trung là “tu trí lực”. “Tu” là học tập, bồiđắp, “trí lực” là trí tuệ, khả năng. Ý thơ vẫn tiếp tục gợi cho người đọc hiểu thêm rằng, đất nước vẫn đang đòi hỏi, còn yêu cầu những con người chiến thắng này nhiều cống hiến hơn nữa. Có như vậy mới có sự yên bình, vững chãi muôn năm. Một ý thơ đầy tinh thần trách nhiệm. Bài thơ có cái hồ hởi, phấn chấn tột cùng trước những chiến thắng, những chiến công. Niềm tự hào, niềm say mê, tinh thần lạc quan thật bay bổng phù hợp với hào khí Đông A thủa ấy. Nhưng đây cũng là một niềm vui rất lí trí, rất tỉnh táo sáng suốt của con người ý thức được giá trị trọn vẹn của niềm vinh quang. Mặt khác phù hợp với phong cách ngôn ngữ, uy thế của vị tướng quốc đầu triều. Kết cấu chặt chẽ, có sức khái quát cao, cảm xúc cô đọng lại vừa có khả năng gợi mở ý tưởng đã tạo ra một sự thống nhất nội dung và hình thức theo kiểu tuyên ngôn riêng biệt. Đấy chính là nét đặc sắc của Phò giá về kinh. Cho đến hôm nay bài thơ vẫn sống trong niềm tự hào dân tộc, vẫn giữ nguyên giá trị thời sự nóng hổi, vẫn là một bài học. Bài học về ý thức, trách nhiệm xây dựng đất nước vững mạnh sau chiển tranh. Đề số 5 Cảm nghĩ về vẻ đẹp con người qua truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao. Bài làm Mỗi một nhà văn đều có cảm hứng sáng tác riêng của mình. Nam Cao cũng vậy, ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn lấy cảm hứng sáng tác từ những người nông dân trong xã hội cũ, ca ngợi vẻ đẹp nội tâm tiềm tàng của họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tiêu biểu trong số đó. Vẻ đẹp của những người nông dân nghèo khổ được nhà văn thể hiện một cách khách qua, sâu sắc và truyền cảm qua bức chân dung của Lão Hạc. Trước hết vẻ đẹp ấy bộc lộ ở lối sống tình nghĩa. Lão rất thương “cậu vàng” - tên thân mật lão đặt cho con chó vàng. Đó là kỉ niệm về đứa con trai. Một trận ốm đã khiến cho cuộc sống của lão càng túng bấn, cơm lão ăn mỗi bữa cũng chẳng đủ no nói gì tới việc nuôi thêm con vàng. Cuối cùng lão phải quyết định bán, mặc dù con vàng đã gắn bó với lão trong những ngày lão cô đơn nhất. Có điều lão đã băn khoăn day dứt nhiều lần. Khi sang nhà ông giáo kể về việc bán chó, lão cố tỏ rõ sự vui vẻ, nhưng lão "cười mà như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt lão đột nhiên co rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu lão nghẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc". Lão tự trách mình bằng này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó. Cách một con người, nhất là người nghèo khổ đối xử với một con vật là sự thể hiện nhân cách rõ ràng nhất, bản chất nhất. Chỉ ai sống bằng tình nghĩa, mới biết gắn bó, tri ân dẫu là với một con vật. Chỉ ai cao thượng mới biết xấu hổ, ân hận trước hành vi mà mình coi là phản trắc trước một con vật. Vẻ đẹp có sức mạnh nhất trong con người là tình thương yêu, đức hi sinh cao cả. Bao trùm tính cách lão Hạc chính là tấm lòng, đứ tính này. Thương con, lão cố gắng dành dụm tiền cho con cưới vợ, cố giữ lấy mảnh vườn cho con, dù cuộc sống có khó khăn, khổ sở thế nào. Lão cố gắng thu vén sao cho không phiền đến người khác. Lão gửi ông giáo ba mươi đồng bạc phòng khi lão chết có tiền làm ma. Lòng tự trọng đã không cho phép lão nhận sự giúp đỡ giấu giếm của ông giáo. Đó là phẩm chất kiên cường của người nông dân nghèo khổ. Nhưng đau đớn thay, chính những phẩm chất lớn lao này đã dẫn lão đến với cái chết. Lão Hạc chủ động chọn cái chết, nghĩa là lão đã hành động quyết liệt nhất, xả thân để bảo vệ vẻ đẹp con người, vẻ đẹp làm người. Trong truyện ngắn Lão Hạc, hình ảnh ông giáo cũng ngời sáng. Ông giáo đại diện tiêu biểu cho tình yêu thương, chia xẻ, sự đồng cảm, niềm tin ở vẻ đẹp con người và cũng chính là một vẻ đẹp. Nhất là trong một xã hội mà vì nghèo khổ quá người ta nghi ngờ nhau, không thể đến được với nhau, không tin vào sự tốt đẹp của nhau. Vẻ đẹp con người trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao được xây dựng trên cảnh nghèo khó của người nông dân trong xã hội cũ. Nhưng đó là vẻ đẹp của con người Việt Nam, nên dẫu thời "đói nghèo trong rơm rạ, văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi" (Chế Lan Viên) này đã qua đi lâu rồi, vẻ đẹp ấy vẫn lung linh ánh sáng và đầy sức lay động. Đề số 6 Quê hương trong thơ Tế Hanh Bài làm Quê hương trong xa cách là nguồn đề tài vô tận, là cả một dòng cảm xúc dạt dào, lấp lánh suốt đời thơ Tế Hanh. Cái làng quê nghèo ở một cù lao trên sông Trà Bồng đã nuôi dưỡng tâm hồn Tế Hanh, đã trở thành nguồn cảm xúc vô tận để ông viết nên những vần thơ tha thiết, lai láng như : “Nhớ con sông quê hương”, “Quê hương”, “Trở lại con sông quê hương”. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất miền Trung - Quãng Ngãi, một vùng đất cằn cỗi, quanh năm chỉ có gió và cát, một vùng quê nghèo. Do hoàn cảnh bắt buộc, ông rời xa quê hương từ thuở thiếu thời. Trong thời gian xa quê ông viết rất nhiều tác phẩm, chủ yếu là về quê hương, bằng tất cả những tình yêu, nỗi nhớ của mình. Một vùng đất đầy thơ mộng và rất đẹp trong thơ Tế Hanh. Trong đó có nói con sông quê mà ông gắn bó : Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Xa quê, xa cả con sông. Có thể nói đó là nỗi đau của ông. Qua những kỉ niệm, hồi tưởng về con sông trong “nỗi nhớ con sông quê hương”, Tế Hanh đã thể hiện một tình yêu quê hương tha thiết, mãnh liệt, một hình ảnh quê hương thân thiết, ruột rà. - Làng tôi ở vốn nghề chài lưới Nước bao vây cách biển nửa ngày sông - Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Thế đấy, quê hương trong thơ Tế Hanh hiện lên đẹp và mát dịu như vậy. Còn người dân quê thì mạnh mẽ, tinh tế, sống động : Dân chài lưới làn da ngăm dám nắng Có thân hình nồng thở vị xa xăm Chỉ có ai là con người của sông nước, vạn chài mới có thể tạo được hình ảnh người dân chài giữa đất trời lồng lộng gió với đủ hình khối, màu sắc và hương vị. Chất muối mặn nồng ngấm vào thân hình người dân quê hương cũng như n

File đính kèm:

  • docNHUNG BAI VAN CHON LOC LỚP 10.doc