Giáo án Ngữ văn 10 tiết 2: Đọc tiểu thanh kí ( Độc tiểu thanh kí - Nguyễn Du)

ĐỌC TIỂU THANH KÍ

 ( Độc Tiểu Thanh kí - Nguyễn Du)

I.MỤC TIÊU .

 1. Kiến thức: Củng cố giỏ trị nội dung, nghệ thuật của tỏc phẩm.

2. Kĩ năng - Rèn kỹ năng đọc - hiểu một bài thơ chữ Hán.

3. Thái độ:- Giáo dục các em lòng thương người, trân trọng những con người tài năng.

 

doc4 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 687 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 10 tiết 2: Đọc tiểu thanh kí ( Độc tiểu thanh kí - Nguyễn Du), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngày soạn: ................./2012 STTPPCT: TC 02 Ngaỳ dạy:................./ 2012 đọc tiểu thanh kí ( Độc Tiểu Thanh kí - Nguyễn Du) I.Mục tiêu . 1. Kiến thức: Củng cố giỏ trị nội dung, nghệ thuật của tỏc phẩm. 2. Kĩ năng - Rèn kỹ năng đọc - hiểu một bài thơ chữ Hán. 3. Thái độ :- Giáo dục các em lòng thương người, trân trọng những con người tài năng. II. chuẩn bị của GV và HS. 1. GV: SGK + SGV + TLTK + GA. 2. HS: Hs ụn kiến thức đó học về tỏc phẩm 3. Phương pháp: Đọc sáng tạo, gợi tìm, thảo luận, trả lời câu hỏi trong SGK. III. tiến trình dạy học. 1. ổn định tổ chức lớp. 2. Bài mới Hoạt động của Gv và Hs Yờu cầu kiến thức H:Giới thiệu thơ chữ Hỏn của Nguyễn Du ? và đề tại của những tỏc phẩm thơ ? Gv : Giới thiệu thờm về Tiểu Thanh Tiểu Thanh là người con gái có tài có sắc sống vào đầu đời Minh ở Trung Quốc. Nàng họ Phùng, lấy lẽ một người cũng tên là Phùng. Vợ cả ghen hành hạ, nàng buồn khổ đến chết khi mới mười tám tuổi, nay ở Cô Sơn, Chiết Giang vẫn còn mộ. Trước tập thơ còn sót lại và câu chuyện về số phận bi thảm của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã bày tỏ sự đồng cảm của mình. Qua bài thơ, tác giả còn thể hiện một tư tưởng nhân đạo rất sâu sắc : Con người hãy biết thương yêu đồng loại, trân trọng những giá trị tốt đẹp của cuộc sống, hãy đừng vô tình với nỗi đau của mọi người. Bài thơ còn thể hiện một khát khao cháy bỏng của người nghệ sĩ, đó là khát khao được đồng cảm, được thấu hiểu và được sẻ chia. Phõn tớch bài thơ Đọc Tiểu Thanh Kớ của Nguyễn Du? Yờu cầu hs: - Giới thiệu về tỏc giả và tỏc phẩm - Tỡm ý - Phõn tớch ý - Quan niệm của nguyễn Du “ Tài hoa bạc mệnh” H: Tõm Sự của Nguyễn Du thể hiện ở hai cõu cuối ? I/ ễn tập 1. Tác giả Bên cạnh kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại cho văn học dân tộc nhiều bài thơ chữ Hán có giá trị. Thơ của Nguyễn Du chủ yếu thuộc loại thơ cảm thương. Thương người nghèo, thương người đói, thương con người trong cuộc bể dâu. Là một con người có tấm lòng nhân đạo cao cả, là người nghệ sĩ có tình yêu tha thiết với cái đẹp, nên tình cảm và tâm huyết của ông tập trung ở những bài thơ về thân phận "tài hoa bạc mệnh". Đó là nàng Kiều, là người ca nữ đất Long Thành, là nàng Tiểu Thanh... Có thể nói : trân trọng tài năng và đồng cảm với số phận bi kịch của họ là tinh thần nhân đạo xuyên suốt trong cảm hứng sáng tạo của Nguyễn Du. 2. Tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí là bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với tấn bi kịch số phận của nàng Tiểu Thanh - người con gái tài sắc vẹn toàn mà mệnh yểu. II - Kiến thức cơ bản Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du chính là tiếng lòng vượt lên bao khoảng cách để mà cảm thông và thương xót cho một kiếp người. Nguyễn Du gặp gỡ Tiểu Thanh mà sao giống như cuộc gặp trong định mệnh. Đó là cuộc gặp gỡ giữa hai người tài hoa và đầy duyên nợ với văn chương : Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang Thổn thức bên song mảnh giấy tàn Cảnh được tả thật hoang tàn. Nguyễn Du nhắc đến một địa danh trong câu thơ thứ nhất : Tây Hồ (Tây Hồ thuộc tỉnh Chiết Giang - Trung Quốc), nơi có núi Cô Sơn, chỗ Tiểu Thanh, một cô gái sắc tài nhưng bất hạnh từng sống. Một sự đổi thay được cảm nhận như là bước đi của lẽ đời dâu bể. Đó là sự đổi thay tuyệt đối từ quá khứ sang hiện tại, từ vườn hoa thành gò hoang và từ có đến không. Từ tẫn trong nguyên bản "hoa uyển tẫn thành khư" gợi sự thay đổi dữ dội, khốc liệt : thay đổi hết, không còn chút dấu vết gì. Hoá ra câu thơ không phải nói lẽ đời dâu bể. Nguyễn Du đang thương cho cái đẹp bị dập vùi. Câu thơ mới chỉ tả cảnh mà đã gợi đến bao nỗi xót xa. Toàn bộ câu chuyện đau thương năm xưa về nàng Tiểu Thanh hiện về. Câu thơ nói chuyện riêng tư nhưng cũng là nỗi lòng nhân thế. Câu thơ thừa đề mới thực là cuộc gặp gỡ của Nguyễn Du : Độc điếu song tiền nhất chỉ thư (Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ) Khi còn sống, Tiểu Thanh có làm một tập thơ (Tiểu Thanh kí) để ghi lại nỗi xót xa, lẻ bóng của mình. Khi nàng tự vẫn, vợ cả đem ra đốt, may còn lại vài bài. Vậy ra cuộc viếng thương Tiểu Thanh không phải diễn ra tại Cô Sơn. Sự tiếc thương của Nguyễn Du đã vượt qua khoảng cách thời gian, không gian (chỉ viếng nàng qua tập sách đốt còn dang dở). Câu thơ tiếp tục khơi vào số phận bất hạnh của Tiểu Thanh. Phần dư cảo của Tiểu Thanh kí phải chăng cũng chính là cuộc đời tan vụn của nàng ? Tan vụn nhưng chưa vĩnh viễn mất đi, tan vụn nhưng vẫn còn vương lại để mà tiếp tục giận hờn oán trách. Tiểu Thanh đẹp mà bất hạnh, tài năng mà yểu mệnh. Đó có phải là số mệnh của những kẻ nhan sắc lại tài hoa ? Day dứt ấy ám ảnh Nguyễn Du cả một đời : Son phấn có thần chôn vẫn hận, Văn chương không mệnh đốt còn vương. Hai câu thơ khái quát lại nỗi oan trái của Tiểu Thanh. Son phấn là nỗi oan của sắc. Văn chương là nỗi oan của tài. Hai vật vô tri được nhân cách hoá để có thần, có mệnh, làm nên cái thần, cái mệnh của Tiểu Thanh. Tập sách kia dẫu có bị đốt đi nhưng cuộc đời Tiểu Thanh vẫn luôn hiển hiện để mà tiếp tục kêu than, đau đớn thay cho những kiếp như mình. Hai câu thơ viết bằng cảm hứng xót xa và ngợi ca cái đẹp, cái tài. Bốn câu thơ sau là hai sự đổi thay về ý. Từ thương một người con gái tài hoa, Nguyễn Du thương cho muôn kiếp tài hoa ; từ thương người, Nguyễn Du ngậm ngùi trong nỗi thương mình. Nỗi oan, nỗi hận của Tiểu Thanh được Nguyễn Du khái quát thành nỗi hờn, nỗi oan của bao kẻ cùng hội cùng thuyền : Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi, Cái án phong lưu khách tự mang. Câu thơ chất chứa bao nỗi hờn kim cổ thành một câu hỏi lớn treo lơ lửng giữa không trung không lời đáp. Tại sao khách má hồng lại gặp nỗi truân chuyên ? Tại sao những kẻ tài hoa lại hay yểu mệnh ? Câu thơ là nỗi lòng nhân thế, là những nghịch cảnh thường gặp trong cuộc đời : khách phong lưu lại phải oan, phải khổ. Câu hỏi như hướng vào vô vọng, không lời đáp. Nỗi hận, nỗi oan cũng vì thế mà càng nhức nhối. Sau này khi đến thăm chùa Tây Phương, Huy Cận còn nhìn thấy nỗi hờn của thời đại Nguyễn Du hiện trên mặt tượng đầy bế tắc : Một câu hỏi lớn không lời đáp Cho đến bây giờ mặt vẫn chau Hai câu luận còn là một sự nhập thân. Đó là sự nhập thân tự nguyện của Nguyễn Du với những kiếp tài hoa bạc mệnh : "Phong vận kì oan ngã tự cư". Chữ ngã ở đây có nghĩa là "tôi", "ta". Bản dịch, dịch thành "khách" là chưa đạt. Nhưng cũng phải đến hai câu kết, chủ thể trữ tình mới hiện ra rõ nét : Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng ? Hai câu cuối lạ, chuyển ý bất ngờ, niêm luật không chú trọng mà không lạc dòng cảm xúc. ý tứ đến cũng tự nhiên và hợp lí. Từ thương người, Nguyễn Du chuyển mạch đến thương mình. Hai câu thơ kết cấu thành một câu hỏi. Câu hỏi hướng đến những điệu hồn tri âm. Không hỏi quá khứ, không hỏi hiện tại, vì quá khứ và hiện tại đều bế tắc. Câu hỏi hướng đến tương lai. Nguyễn Du cũng không hỏi trời, ông hỏi người vì còn mong ở đời có thể tìm thấy những tri âm. Với nàng Tiểu Thanh, ba trăm năm sau đã có một Nguyễn Du "thổn thức", không biết "với mình" liệu ba trăm năm sau có ai biết đến mà cảm thông ? Câu thơ trĩu nặng. Hai từ bất tri (không biết) đầy tủi hổ tưởng có thể buông xuôi. Nhưng câu thơ vẫn là một niềm tin. Nguyễn Du vẫn tin ở nhân tâm của con người. Thơ hoài cổ thường là tiếng khóc dành cho những cố nhân. Thơ Nguyễn Du không hoàn toàn như vậy. Nhớ đến, thương đến cố nhân, tác giả chạnh lòng thương chính bản thân mình và những người nghệ sĩ. Nó chính là khởi nguồn cho cảm hứng nhân văn cao cả của bài thơ. Độc Tiểu Thanh kí còn là sự day dứt cả đời của Nguyễn Du. Đó là niềm day dứt của thi nhân về nỗi bấp bênh của thế thái nhân tình. Niềm day dứt ấy phải vì thế mà ôm trọn sự bế tắc của "thời đại Nguyễn Du"

File đính kèm:

  • docTC 2 Doc tieu Thanh ki.doc