Đề tài Thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: QUAN NIỆM CHUNG VỀ KINH TẾ NHÀ NƯỚC (KTNN) 2

1. Quá trình hình thành kinh tế nhà nước 2

2. Quan niệm về Kinh tế nhà nước 3

2.1. Khái niệm về kinh tế nhà nước 3

2.2. Các bộ phận hợp thành và chức năng của từng bộ phận 3

CHƯƠNG II 5

TÍNH TẤT YẾU VÀ NỘI DUNG VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN 5

1. Tính tất yếu phải phát triển mạnh và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. 5

2. Vai trò chủ đạo của KTNN trong giai đoạn hiện nay 6

2.1. KTNN là lực lượng vật chất 6

2.2. Hoạt động của khu vực KTNN 6

2.3. Kinh tế nhà nước 7

2.4. KTNN 7

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 9

1. Quá trình đổi mới doanh nghiệp ở nước ta 9

1.1. Giai đoạn 1980-1986 9

1.2. Giai đoạn 1986-1990 9

1.3. Giai đoạn 1990 đến nay 10

2. Trên cơ sở quá trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. 12

2.1. Những thành tựu nước ta trong giai đoạn 1991-2001 về việc đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước 12

2.2. Những nguyên nhân hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước 13

2.3. Những thay đổi về mặt quản lý - tổ chức quản lý 13

2.4. Chúng ta thực hiện đa dạng hoá: 14

3.1. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được doanh nghiệp nhà nước còn có những tồn tại chủ yếu 14

3.2. Những nguyên nhân của những tồn tại trên. 16

CHƯƠNG IV: CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CHỦ ĐẠO CỦA KINH TẾ NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 18

1. Các giải pháp chung đối với tất cả các bộ phận của kinh tế Việt Nam. 18

1.1. Nhận thức đúng đắn về kinh tế nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. 18

1.2. Đẩy mạnh phát triển kinh tế tư bản. 18

1.3. Cải cách hệ thống ngân hàng và tài chính. 18

1.4. Nâng cao phẩm chất và năng lực quản lý của toàn bộ lãnh địa chủ chốt trong khu vực kinh tế nhà nước. 19

1.5. Xây dựng cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa doanh nghiệp nhà nước và khu vực dân doanh. 19

1.6. Nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho xã hội vừa là dựa trên nền kinh tế thị trường vừa đảm bảo vai trò của nhà nước. 19

1.7. Xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội, làm tốt công tác an sinh xã hội. 19

2. Phương hướng đổi mới doanh nghiệp trong thời gian tới. 19

2.1. Doanh nghiệp nhà nước 19

2.2. Doanh nghiệp nhà nước 19

2.3. Phát triển doanh nghiệp nhà nước 20

3. Trên cơ sở các phương hướng đặt ra 20

3.1. Định hướng sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh công ích. 20

3.2. Sửa đổi bổ sung cơ chế chính sách. 21

3.3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty nhà nước, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. 22

3.4. Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 23

3.5. Thực hiện giao, khoán kinh doanh, bán cho thuê, sát nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp nhà nước. 24

4. Đổi mới nâng cao hiệu quả, hiệu quả quản lý của nhà nước và các cơ quan chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. 24

4.1. Xác định rõ chức năng, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước 24

4.2. Phân định rõ ràng quyền của các cơ quan nhà nước. 24

4.3. Đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước. 25

KẾT LUẬN 26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 27

 

doc33 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Nền kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là một tất yếu khách quan. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của nhà nước, nó tồn tại và phát triển phụ thuộc vào những tiền đề kinh tế, chính trị khách quan của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế này mà thành phần kinh tế luôn có vai trò vị trí và vận động phát triển theo một xu hướng nhất định. Nhưng xuất phát từ tính quy luật vốn có của nền kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế này mỗi thành phần kinh tế luôn có vai trò vị trí và vận động, phát triển theo một xu hướng nhất định. Nhưng xuất phát từ tính quy luật vốn có của nền kinh tế đều vận động theo hướng đến mục tiêu lợi ích. Nhưng Đảng và Nhà nước luôn khẳng định kinh tế nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn trong hơn 10 năm đổi mới vừa qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng củng cố, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và hiện nay vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang từng bước được khẳng định. Tuy nhiên hiện nay đang có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc phát triển thành phần kinh tế này: đổi mới, cổ phần sắp xếp, nâng cao hiệuquả. Vì vậy trong đề án này tôi tập trung đi vào việc nghiên cứu quan niệm về kinh tế thị trường, tính tất yếu và nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần, vai trò của nó được thể hiện như thế nào, các giải pháp để trong thời gian tới tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ở nước ta. Tôi hi vọng nó sẽ góp phần nhỏ để mọi người hiểu hơn về thành phần kinh tế này và góp một phần vào việc phát triển kinh tế nhà nước trở lên vững mạnh. Chương I Quan niệm chung về kinh tế nhà nước (KTNn) 1. Quá trình hình thành kinh tế nhà nước Mỗi nhà nước đều có chức năng kinh tế nhất định và chức năng này được thông qua các mức độ khác nhau tuỳ từng giai đoạn phát triển. ở bất kì nước nào kém phát triển hay phát triển chức năng của kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. ở nước ta sau khi giải phóng (1954) và thống nhất đất nước (1975) trong quá trình xây dựng CNXH do nhận thức đơn giản phiến diện nên đã đồng nhất giữa sở hữu nhà nước với sở hữu XHCN. Chúng ta coi kinh tế quốc doanh là chủ yếu bó hẹp phạm vi xí nghiệp quốc doanh, thành lập xí nghiệp quốc doanh ở mọi lĩnh vực. Đặc biệt là vấn đề quản lý: theo kiểu tập trung quan liêu, theo kế hoạch định trước theo kiểu lỗ thì được bù, lãi thì nộp ngân sách. Nó đã tập trung mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975). Song khi đất nước giải phóng đã bộc lộ nhiều nhược điểm căn bản làm thui chột tính năng động, sáng tạo của các xí nghiệp, đặc biệt là thiếu một môi trường kinh doanh. Số lượng các xí nghiệp quốc doanh quá nhiều, dàn trải, chồng chéo về cơ chế quản lý, ngành nghề, kĩ thuật lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, nhiều doanh nghiệp thua lỗ triền miên, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trước tình hình đó Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (12-1986) đã đề ra chủ trương đổi mới nền kinh tế một cách toàn diện, chuyển dịch sang kinh tế thị trường đinh hướng XHCN. Lý luận trong quá trình đi lên CNXH có thay đổi căn bản: sự thừa nhận tồn tại của 5 thành phần kinh tế, kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và lúc này vai trò của kinh tế nhà nước cũng có nhiều đổi mới. Đến các đại hội Đảng khác thì chúng ta vẫn tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng, then chốt của KTNN trong toàn nền kinh tế quốc dân. 2. Quan niệm về Kinh tế nhà nước 2.1. Khái niệm về kinh tế nhà nước Kinh tế nhà nước là loại hình kinh tế do nhà nước nắm giữ bao gồm quyền sở hữu, quyền tổ chức, chi phối hoạt động theo những hướng đã định. Kinh tế nhà nước được thể hiện dưới những hình thức nhất định: doanh nghiệp nhà nước, ngân hàng nhà nước, quỹ dự trữ quốc gia, hệ thống bảo hiểm. Như vậy kinh tế nhà nước có nhiều bộ phận hợp thành, và tất cả các bộ phận đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước. 2.2. Các bộ phận hợp thành và chức năng của từng bộ phận a. Doanh nghiệp nhà nước: "là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoạt động công ích, nhằm thực hiện những mục tiêu đã định". Như vậy doanh nghiệp nhà nước có 2 loại: Một là, các doanh nghiệp hoạt động vì mục đích lợi nhuận, hai là: các doanh nghiệp hoạt động vì mục đích xã hội. Nếu loại doanh nghiệp thuộc loại 1 thì hoạt động với mục đích ổn định chính trị và chủ yếu còn doanh nghiệp thuộc loại 2 thì lấy mục đích lợi nhụân là chủ yếu tuy nhiên phải chấp hành pháp luật. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của loại 1 là: quốc phòng an ninh, tài chính, y tế, văn hoá, giáo dục còn doanh nghiệp thuộc loại 2 là hoạt động trên tất cả các ngành, lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy mỗi doanh nghiệp có chức năng và đặc thù về cơ chế quản lý. b) Ngân sách nhà nước là một bộ phận của KTNN, thực hiện chức năng thu, chi ngân sách, và có tác dụng điều chỉnh, quản lý, kiểm soát các hoạt động của KTNN. Doanh nghiệp nhà nước và các thành phần kinh tế khác, c) Ngân hàng nhà nước: là một bộ phận của KTNN nhằm đảm bảo cho KTNN, kinh tế quốc dân hoạt động bình thường trong mọi tình huống. Các quỹ dự trữ quốc gia dùng lực lượng vật chât để điều tiết quản lý bình ổn giá cả, đảm bảo cho tình hình kinh tế - xã hội chung. d) Hệ thống bảo hiểm: là một bộ phận không thể thiếu được của kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước chịu trách nhiệm thực hiện chế độ bảo hiểm do nhà nước quy định phục vụ cho kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Các bộ phận cấu thành của KTNN có chức năng nhiệm vụ cụ thể là khác nhau, nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau, nhiệm vụ cụ thể là khác nhau, nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau trong một hệ thống kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Các bộ phận cấu thành của KTNN có chức năng, nhiêm vụ cụ thể là khác nhau, nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau trong một hệ thống kinh tế nhà nước và hoạt động theo một thể chế được nhà nước quy định thống nhất. Chương II Tính tất yếu và nội dung vai trò chủ đạo của Kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần 1. Tính tất yếu phải phát triển mạnh và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần. Nước ta có rất nhiều hình thức sở hữu khác nhau: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp, sở hữu tư nhân. Trong đó sở hữu nhà nước giữ vai trò cực kì quan trọng - ứng với nó là thành phần kinh tế nhà nước và việc thừa nhận và phát triển thành phần kinh tế này là một tất yếu khách quan. Hơn thế nữa chúng ta xây dựng KTTT định hướng XHCN thì để đảm bảo tính định hướng XHCN có sự điều tiết, kiểm soát của nhà nước thì phải có một KTNN vững mạnh, phát triển là lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện vai trò điều tiết, hướng nền kinh tế theo những mục tiêu của XHCN. Dù bất cứ ở nước nào chính phủ đều phải nắm trong tay những sức mạnh kinh tế thông qua thành phần kinh tế nhà nước. Có như vậy những cải cách, tác động vào nền kinh tế mới có hiệu quả. Nhưng định hướng chính sách dù có đúng nhưng nếu không có sức mạnh vật chất thì nó cũng không thể thành công trong mọi lúc. Trong KTNN, hệ thống các doanh nghiệp nhà nước giữ một vai trò cực kì quan trọng trong việc phát triển hệ thống doanh nghiệp cần thiết trong giai đoạn hiện nay vì: Do nhu cầu khôi phục kinh tế sau chiến tranh các doanh nghiệp ***** ra để nhằm thực hiện những dự án lớn mà lực lượng tư nhân không thể gánh vác được, đòi hỏi vốn lớn, công nghệ cao chỉ có các doanh nghiệp nhà nước mới đáp ứng được. Do có rất nhiều thuyết (đặc biệt là của Keyness) về vai trò của kinh tế nhà nước, chính phủ đã chủ trương thành lập nhiều doanh nghiệp nhà nước về cung cấp các hàng hoá công cộng, tạo ra việc làm, phân phói lại thu nhập, xoá bỏ độc quyền, thực hiện công bằng xã hội. Chúng ta đang thực hiện CNH, HĐH: đi tắt, đón đầu, quá trình này đòi hỏi lượng vốn rất lớn, và rủi ro cao, các doanh nghiệp tư nhân không thể hoặc muốn tham gia vào chính phủ buộc phải thành lập các doanh nghiệp nhà nước để thực hiện nhiệm vụ naỳ. Như vậy vấn đề phát triển và tăng cường vai trò chủ đạo của KTTT là một tất yếu khách quan, cần thiết. Nhận thức được mục tiêu này chúng ta phải có nhiều biện pháp chính sách để tăng cường vai trò chủ đạo của nó. 2. Vai trò chủ đạo của KTNN trong giai đoạn hiện nay 2.1. KTNN là lực lượng vật chất, công cụ sắc bén để nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, KTNN với tư cách là một yếu tố, một chủ thể kinh tế đặc biệt. Nó có vai trò vĩ mô điều tiết, điều hành trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế đất nước làm cho nền kinh tế hoạt động thông suốt, tạo lập những cân đối lớn theo định hướng XHCN mà kinh tế thị trường không tự điều chỉnh được. Đây là một vai trò cực kỳ quan trọng của KTNN nó là cơ sở để đảm bảo sự can thiệp của nhà nước là có hiệu quả. Hơn nữa KTNN xuất hiện như là một chủ thể kinh tế độc lập và các chủ thể kinh tế khác trong một số trường hợp lợi ích của nhà nước có thể mâu thuẫn với lợi ích của thành phần kinh tế khác đặc biệt là tư nhân. Sự điều tiết của nhà nước không thể thuận chiều với động cơ lợi nhuận, và lợi ích cá nhân, của các chủ thể. Để đảm bảo sự điều tiết, nhà nước cần có một tiềm lực kinh tế, đủ hoặc đền bù xứng đáng cho thua thiệt của các thành phần kinh tế khác, hướng họ và những hành động theo mục tiêu nhà nước đặt ra. Tất cả những tiềm lực ấy đều do KTNN tạo ra. 2.2. Hoạt động của khu vực KTNN là nhằm mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Chức năng tạo lập môi trường. Tức là nó phải tạo được tiền đề thuận lợi để khai thông và tận dụng mọi nguồn lực ở tất cả các thành phần khác nhau vì sự tăng trưởng chung của nền kinh tế, bảo đảm kinh tế phát triển đúng mục tiêu đã chọn. 2.3. Kinh tế nhà nước là khu vực xung kích chủ yếu thực hiện CNH, HĐH đất nước mặc dù sự nghiệp CNH là sự nghiệp của toàn dân. Nhưng trong bối cảnh tiềm lực của khu vực dân doanh còn chưa đủ mạnh để đảm đương nhiệm vụ này nên sự nghiệp cao cả đó lại đặt lên vai KTNN. Vì vậy trong giai đoạn hiện nay KTNN đặc biệt là việc đầu tư mới của nhà nước vẫn là lực lượng chủ chốt đi đầu trong quá trình chuyển nước ta thành nước công nghiệp văn minh. Để đảm bảo được nhiệm vụ này khu vực KTNN phải huy động tổng lực trước hết là chiến lược đầu tư đúng đắn, trong đó bao hàm cả đầu tư trực tiếp của nhà nước. Lập chính sách khuyến khích để tập thể, tư nhân tập trung vào các ngành mũi nhọn, tạo đà tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế. Tiếp nữa là các nỗ lực về tài chính ngoại giao, chính trị để thực thi chiến lược, chuyển giao công nghệ hiệu quả. Có thêm một điểm mới ở đây là KTNN không chỉ tiến hành CNH, HĐH đơn độc như trước đây mà trở thành một hạt nhân tổ chức lôi kéo các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào quỹ đạo CNH, HĐH nhà nước. 2.4. KTNN giữ các vị trí then chốt trong nền kinh tế tư nhân đảm bảo cân đối vĩ mô của nền kinh tế cũng như tạo đà tăng trưởng lâu dài bền vừng và hiệu quả cho nền kinh tế. Đó là các lĩnh vực như công nghiệp sản xuất, tư liệu sản xuất, quan trọng các ngành công nghiệp mũi nhọn, kết cấu hạ tầng vật chất cho kinh tế như giao thông, bưu chính, năng lượng. Các ảnh hưởng to lớn đến kinh tế đối ngoại như các liên doanh lớn, xuất nhập khẩu hoặc các lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng và trật tự xã hội. Tuy nhiên quan điểm nắm giữ này không có nghĩa là nhà nước độc quyền, cứng nhắc trong các lĩnh vực ấy mà có sự hợp tác, liên doanh hợp lý và các thành phần kinh tế khác nhất là trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xuất nhập khẩu công nghiệp. Như vậy KTNN phải tạo ra lực lượng vật chất hàng hoá và dịch vụ khả dĩ chi phối được giá cả thị trường dẫn dắt giá cả thị trường bằng chính chất lượng và giá của sản phẩm dịch vụ mình làm ra. Mặt khác, trong điều kiện toàn cầu hoá, cuộc cách mạng KHCN đang diễn ra như vũ bão để giữ vững độc lập, sự ổn định về kinh tế - xã hội, kinh tế nhà nước phải vững mạnh và giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế. Với vai trò quan trọng then chốt của KTNN thì hiện trạng của nước ta trong giai đoạn hiện nay ra sao? Chương III Thực trạng doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay 1. Quá trình đổi mới doanh nghiệp ở nước ta 1.1. Giai đoạn 1980-1986: Đây là giai đoạn đầu tiên trong việc chuyển cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường với nhiều biện pháp đổi mới. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khoá IV tháng 9-1979 đã ra quyết định về tình hình và nhiệm vụ cấp bách đánh giá tình hình thực tiễn và những yêu cầu bức thiết của xã hội, và Nghị định 25/CP là bước đầu tiên trong việc chuyển cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sau đó là các quyết định quan trọng như quyết định 146/HĐBT tháng 2-1982, nghị quyết 306 (dự thảo) của Bộ Chính trị đều đưa ra quan điểm và biện pháp đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện cải tiến, cơ chế quản lý nói chung. Các biện pháp đổi mới trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào việc tháo gỡ những vướng mắc, rào cản vô lý của cơ chế cũ, do đó có tác dụng như cởi trói, giải phóng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước. Cho phép các doanh nghiệp nhà nước tự chủ bố trí nguồn lực sản xuất theo ba phần, đã có tác dụng tích cực phát huy sáng tạo của cơ sở, từng bước đưa yếu tố thị trường vào cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên các biện pháp này mang tính nửa vời chắp vá, dẫn đến khó hạch toán, khó kiểm soát, khó đánh giá. 1.2. Giai đoạn 1986-1990: Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI (1986) nêu rõ: đổi mới cơ chế quản lý, sắp xếp lại việc sản xuất của doanh nghiệp nhà nước. Đại hội chỉ rõ: "Phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, lập lại trật tự kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế cho công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho nhà nước". Đại hội vẫn tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước nhưng đưa ra quan điểm coi chủ đạo không có nghĩa là chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi lĩnh vực mà thể hiện ở: năng suất, chất lượng hiệu quả. Đây được coi là giai đoạn đổi mới có tính bước ngoặt đưa doanh nghiệp nhà nước chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Nhiều học giả gọi đây là quá trình thương mại hoá có tác dụng bắt buộc các doanh nghiệp phải định hướng vào thị trường, đồng thời tăng quyền tự chủ doanh nghiệp trong các quyết định kinh doanh. 1.3. Giai đoạn 1990 đến nay Đầu tiên Dại hội đại biểu toàn quốc lần 7 (1991) đã chủ trương "sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh trong đó sắp xếp các xí nghiệp và tổng công ty nhà nước phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường và khu vực quốc doanh" phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước. Đến đại hội đại biểu toàn quốc lần VIII (1996) tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước về: Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở đánh giá, rút kinh nghiệm của quá trình thực hiện "cơ chế 217" các nội dung đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước gồm: Theo quyết định 315/HĐBT các doanh nghiệp phải rà soát lại chức năng hoạt động kinh doanh, rà soát lại các yếu tố sản xuất kinh doanh như: thị trường công nghệ, vốn, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy cán bộ, soát xét lại tình trạng tài chính, kế toán, thống kê Theo Nghị định 388/HĐBT các doanh nghiệp phải được thành lập lại, đăng ký lại để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành 4-1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra cơ sở pháp lý tổng quát trong quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước với nhà nước. Sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước từ 1990 đến 2000 chia 3 giai đoạn: Giai đoạn 1: (1991-1993) Với quyết định 315/HĐBT (tháng 9-1990) về giải thể và tổ chức lại những doanh nghiệp nhà nước yếu kém, nghị định 388/HĐBT về nguyên tắc điều hành doanh nghiệp nhà nước. Quyết định số 202/CT (8-6-1992) thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước. Giai đoạn 2 (1994-1997) Với quyết định số 90/TTg và 91/TTg (3-1994) và chỉ thị 500/TTg (5-1995) về sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, giải thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty trước đây, hình thành tổng công ty có quy mô lớn (tổng công ty 91) và quy mô vừa (tổng công ty 90). Nghị định 38/CP (5-1996) chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Giai đoạn 3 (từ 1998-2000): Theo chỉ thị 20/CT-TTg (4-1998), chỉ thị 15/CT-TTg (5-1999) và Nghị định 44/CP (6-1998) về cổ phần hoá kết hợp phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp nhà nước. Đến đại hội đại biểu toàn quốc lần 9 (2001) tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước trong đó doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế. Cần phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các tổng công ty vững mạnh, để làm nòng cốt cho các tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh ở thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế. Vì vậy cần: Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, xoá bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước như: thực hiện cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên người lao động được mua cổ phần từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Phấn đấu trong khoảng 5 năm cơ bản hoàn thành việc xắp sếp, đổi mới nâng cao hiệuquả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá từng bước các Tổng công ty nhà nước. 2. Trên cơ sở quá trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định. 2.1. Những thành tựu nước ta trong giai đoạn 1991-2001 về việc đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của kinh tế quốc doanh là 11,7%, gần gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gần gấp đôi kinh tế ngoài quốc doanh. Trong giai đoạn 1996-1999 do những nguyên nhân khác nhau đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và thiên tai liên tiếp xảy ra nên tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nói chung giảm dần. Doanh nghiệp nhà nước cũng trong tình trạng đó, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng của các doanh nghiệp nhà nước vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng nền kinh tế. Việc sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước đã góp phần thay đổi một bước cơ cấu vốn và lao động của doanh nghiệp, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung . Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng giảm từ gần 50% (1994) xuống còn 33% (năm 1996) và 26% (năm 1998). Số doanh nghiệp có số vốn trên 10 tỷ đồng từ 10% tăng lên 15% (năm 1996) và gần 20% (năm 1998). Đồng thời vốn bình quân cho một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên hơn 11 tỷ đồng (năm 1996) và hơn 18 tỷ đồng (năm 1998). Đặc biệt bằng những chính sách phù hợp chúng ta đã giải quyết vấn đề trợ cấp và bảo đảm chính sách cho 600.000 công nhaan giảm biên chế trong 2 đợt sắp xếp đồng thời lại tuyển dụng một số lượng gần tương đương. 2.2. Những nguyên nhân hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước về tổng thể đã được nâng lên so với trước trên tất cả các mặt. Các chỉ số về hiệu suất vốn, lãi tuyệt đối, số nộp ngana sách nhà nước, tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước trên vốn đã có những cải thiện đáng kể. Cụ thể đến 1-1-2001 nước ta có 57.631 doanh nghiệp thì có 42.762 doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm 74,2%, 9.482 doanh nghiệp đang xây dựng cơ bản hoặc mới có giấy phép chiếm 16,5%, có 1.498 doanh nghiệp không có khả nưang hoạt động, chờ phá sản, giải thể hoặc sát nhập chuyển đổi hình thức chiếm 36%, trong đó doanh nghiệp nhà nước vẫn có vai trò chủ đạo của nền kinh tế từ số lượng 12.600 doanh nghiệp nhà nước đến nay chỉ còn 5.531 doanh nghiệp măc dù doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 12,9% về số lượng, nhưng chiếm 57,2% về lao động, 4,9% vốn thực tế, 48,6% giá trị tài sản cố định và 52,8% tổng nộp ngân sách của toàn bộ doanh nghiệp nhà nước nói chung. 2.3. Những thay đổi về mặt quản lý - tổ chức quản lý Về mặt quản lý, bước đầu đã phân định chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước. Cụ thể là làm rõ các quan hệ ai là chủ sở hữu vón, mức độ tự chủ của các doanh nghiệp đến đâu, quan hệ với cơ quan chủ quản. Nhờ xác định rõ quyền lực tự chủ của các doanh nghiệp nhà nước nên trong việc thực hiện chủ trương liên doanh, liên kết với nước ngoài qua hoạt động đầu tư quốc tế, các doanh nghiệp nhà nước (chiếm 96% số dự án) đã chủ động tích cực và thực hiện khá thành công, đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hơn 10 năm qua. Trong đổi mới tổ chức quản lý mô hình tổng công ty (chủ yếu là các công ty 91) đã bước đầu phát huy tác dụng là những doanh nghiệp nhà nước nòng cốt của kinh tế nước ta (hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90, cộng lại 93 tổng công ty với 1.534 doanh nghiệp thành viên giữ 66% vốn, 55% lao động, trên 90% kim ngạch xuất khẩu, 80% nộp ngân sách của khu vực doanh nghiệp nhà nước. 2.4. Chúng ta thực hiện đa dạng hoá: Các hình thức sở hữu đã đạt một số kết quả: Mặc dù tiến hành chậm nhưng sau 6 năm thí điểm, tìm tòi tranh luận đến 1998-1999 chúng ta đã tương đối thống nhất về quan điểm và triển khai mạnh các giải pháp chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là cổ phần hoá, trên thực tế các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá đều chứng tỏ vai trò của mình. 3.1. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được doanh nghiệp nhà nước còn có những tồn tại chủ yếu Về hiệu quả kinh doanh doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do Bộ Tài chính quy định. Nhưng theo số liệu năm 1997 của bộ Tài chính, trong tổng số 5.429 doanh nghiệp nhà nước thì số kinh doanh có hiệu quả chiếm 40, 44%. Số liệu này thống nhất với số liệu này thống nhất với số liệu đánh giá của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương (tháng 2 - 2002) số doanh nghiệp buh lỗ chiếm 20%, số doanh nghiệp còn lại nằm trong tình trạng không ổn khi lỗ, khi lãi và lại cũng không lớn. Về tốc độ tăng trưởng liên tục trong thời gian dài 13%/năm đến năm 1998 và đầu năm 1999 tốc độ tăng còn 8 - 9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm. Năm 1995 một đồng vốn tạo ra được 3,46 đồng doanh thu, 019 đồng lợi nhuận đến 1998, 1 đồng vốn chỉ tạo 2,9 đồng doanh thu, 0,14 đồng lợi nhuận. Số doanh nghiệp bị lỗ trong ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41% và nợ phải trả 124% vốn nhà nước trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷ lệ lớn. Số doanh nghiệp này đặc biệt nhiều trong các doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý. Về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta rất kém về khả năng cạnh tranh, có nhiều ngành, sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước đang được bảo hộ tuyệt đối hoặc bảo hộ qua hàng rào hoặc trợ cấp, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ được khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp nhà nước nhà nước lại cố gắng luận chứng để nhà nước tăng cường bảo hộ mạnh hơn để duy trì thi phần và việc làm, theo số liệu nghiên cứu gần đây của Bộ kế hoạch mạnh hơn để duy trì thi phần và việc làm theo số liệu nghiên cứu gần đây của Bộ kế hoạch và đầu tư năm 2000 cho thấy các mặt hàng như thép xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng kính xây dựng đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan lẫn chi phí thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế 10 - 50%, tuỳ mặt hàng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước trên thị trường nội địa cũng kém hiệu quả: ở những ngành có khả năng sin lợi, thì phần các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm xút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực tư nhân. Về cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Khu vực doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý. Cơ cấu ngành vùng, quy mô còn bất hợ lý đều chưa được chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại trước hết tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước (theo số lượng) ở khu vực nông nghiệp (25%) khu vực thương mại (10%) là quá lớn, trong khi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước đòi hỏi phải tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến , chế tạo. Cơ cấu cấp quản lý cũng là bất hợp lý ở chỗ tỷ tr

File đính kèm:

  • docKC (52).doc