Hơn 2100 năm trước, một nhà thơ người Hy Lạp, đã đưa ra 1 danh sách những điều mà ông cho là ngoạn mục và kì diệu nhất vào thời kì đó.
Ý tưởng đầu tiên về những kì quan của thế giới là của Herodotus vào Thế kỷ V TrCN.
7 kì quan này đều nằm ở gần biển Địa Trung Hải vì người viết về 7 kì quan này mới chỉ du ngoạn ở loanh quanh vùng này chứ chưa có dịp đặt chân tới Đông Á, hay Nam Phi cũng như Châu Mỹ .
99 trang |
Chia sẻ: lienvu99 | Ngày: 02/11/2022 | Lượt xem: 198 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kú quan thÕ giíi thêi kú cæ ®¹i
Phituan1977@yahoo.com.vn
DD: 0915 10 10 41
1. Giới thiệu:
Bảy kì quan cổ đại là một đề tài rất hấp dẫn khi tìm hiểu về lịch sử nền văn minh nhân loại. Tuy rằng thời gian đã xóa mờ hầu hết các dấu tích (chỉ còn Kim tự tháp tồn tại), nhưng qua những phế tích và các tài liệu còn lại tới hôm nay cũng giúp cho chúng ta thấy khả năng to lớn của con người. Với những kỹ thuật thô sơ, cách đây hàng ngàn năm, con người đã làm được những điều tưởng chừng là không tưởng!
2. Xuất xứ tên gọi “7 kì quan”
Hơn 2100 năm trước, một nhà thơ người Hy Lạp, đã đưa ra 1 danh sách những điều mà ông cho là ngoạn mục và kì diệu nhất vào thời kì đó.
Ý tưởng đầu tiên về những kì quan của thế giới là của Herodotus vào Thế kỷ V TrCN.
7 kì quan này đều nằm ở gần biển Địa Trung Hải vì người viết về 7 kì quan này mới chỉ du ngoạn ở loanh quanh vùng này chứ chưa có dịp đặt chân tới Đông Á, hay Nam Phi cũng như Châu Mỹ .
BẢY KỲ QUAN CỦA THẾ GIỚI CỔ ĐẠI
1.Hải đăng Alêchxanđri (Ai Cap)
2.Kim tự tháp Kêôp (Ai Cap)
3.Lăng Môdôlơ
( Thæ nhÜ kú)
4.TƯỢNG THẦN HÊLIÔT (HiLap)
5.Tượng Thần Zơt (Hi Lap)
6.Vườn treo Babylon (I Rac)
7.Đền Actêmit (Thæ NhÜ Kú)
1.Hải đăng Alêchxanđri
Hải đăng Alêchxanđri một trong 7 kì quan của thế giới cổ đại: tháp đèn biển được xây dựng xong năm 285 tCn . trên đảo Pharôt (Pharos) ở Alêchxanđri (Alexandrie) – thành phố cảng đầu tiên của Ai Cập, trên đường biển qua lại của tàu thuyền người Phênixi (Phénicie) đi từ Tyrơ (Tyr) và từ Xyđông (Sydon) về hướng bờ biển Châu Phi; Tác giả là kiến trúc sư người Hi Lạp Xôxtơratut ở Xniđut (Sostratus of Cnidus). Đó là một tháp ba tầng, cao 130 m. Tầng dưới là một toà nhà, mỗi chiều dài 30 m xây bằng những viên đá vôi lớn. Tầng hai xây theo kiểu lầu bát giác bằng đá hoa cương.
Tầng ba dặt ngọn đèn hình trụ có vòm che. Trên nóc vòm là tượng thần biển Pôxâyđông (Poséidon) bằng đồng cao 7 m, vòm có những cột đá hoa cương đỡ, không có tường bao quanh để ánh sáng của đèn chiếu khắp nơi nhờ một hệ thống mặt gương bằng kim khí phản chiếu, vì thế ở cách xa 60 km người đi biển vẫn trông thấy.
Năm 1302, do động đất, Hải đăng Alêchxanđri đã bị sập đổ. Tên đảo Pharôt, nơi đặt ngọn Hải đăng đầu tiên của nhân loại, đã trở thành một danh từ chung trong một số ngôn ngữ ở Châu Âu (như Ph. Phare, N. fara: đèn chiếu). ( theo “Từ điển bách khoa Việt Nam”, tập 2, xuất bản năm 2002, và “Grand dictionnaire encyclopédique Larousse” ).
Còn có tên gọi khác là hải đăng Pharos
Hải đăng khởi công năm 290TrCN dưới thời vua Ptolemy I, khánh thành khoảng năm 283 TrCN dưới thời vua Ptolemy II. Ngoại trừ Kim tự tháp ở Giza, hải đăng là công trình cao nhất trong thế giới cổ đại
Cao khoảng 135 m
Được xây bằng đá granit và đá vôi trắng
Bị hư hại bởi các trận động đất, vào khoảng thế kỉ XII TrCN bị thay bởi nhà thờ Hồi giáo. Toàn bộ công trình bị sụp đổ hoàn toàn năm 1303 trong trận động đất nghiêm trọng khác, và hầu như được thay bằng pháo đài Qait Bey năm 1479
Pháo đài Qait Bey hiện nay
2.Kim tự tháp Kêôp
Kim tự tháp là công trình có hình chóp, đáy vuông, thường là lăng mộ của các vua Ai Cập cổ đại. Có ba kim tự tháp lớn: Kêôp (khéops hoặc Chéops), Kêphren (Khéphren) và Mykêrinôt (Mykérynos). Các kim tự tháp được xây bằng những phiến đá lớn, mỗi tháp gồm hàng triệu phiến trung bình nặng 2, 5 tấn Kích thước của tháp chứa nhiều phép tính kì diệu: Lấy chu vi đáy chia cho hai lần chiều cao của tháp sẽ được số = 3,14; chiều cao của tháp đúng bằng bán kính của hình tròn có chu vi bằng chu vi của đáy tháp, vv.. .Trong lòng tháp có phòng đặt quan tài chứa xác ướp của vua Ai Cập. Phòng có kích thước 10,47 x 5,23 m, thông với bên ngoài bằng một đường hầm rất hẹp (cao 1 m, ngang 1,05 m) và cửa ở lưng chừng tháp tại độ cao 17,42 m. Kim tự tháp Kêôp là kim tự tháp lớn nhất trong số kim tự tháp, được xây dựng trên cao nguyên Ghizê (Gizeh; Ai Cập).
Tháp cao 146,60 m (nay chỉ còn khoảng 137 m), mỗi cạnh đáy dài 231 m, được xây dựng trong 40 năm, gồm 2, 3 triệu phiến đá lớn (mỗi phiến trung bình nặng 2, 5 tấn, những phiến ở đáy nặng 55 tấn), được mài nhẵn và xếp chồng khít lên nhau. Trong kim tự tháp có nhiều phòng, hầm và hành lang kiên cố. Hiện nay, thi hài Kêôp không còn.
Kêôp là vua Ai Cập cổ đại, con trai của Xnêfru (Snefrou; vua Ai Cập), pharaông thứ hai của triều đại thứ tư thời Cổ vương quốc (khoảng năm 2600 tCn.). ¤ ng nổi tiếng là do đã chủ trì việc xây dựng kim tự tháp Kêôp làm lăng mộ của mình.
Theo nguồn thông tin ít ỏi liên quan đến Ai Cập cổ đại, Kêôp đã xây dựng được một vương quốc hùng mạnh của giới tăng lữ trong thời đại mà Hêliôpôlit (Héliopolis – một trung tâm tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời ) bắt đầu đóng vai trò là một thủ đô tôn giáo, bên cạnh Memphit (Memphis) là một thủ đô chính trị.
XÂY DỰNG KIM TỰ THÁP:
Để hoàn thành được Kim Tự Tháp Cheops, người ta đã phải sử dụng 2,3 triệu viên đá được mài nhẵn, mỗi viên nặng trung bình 2,5 tấn (viên nhẹ nhất 2 tấn, viên nặng nhất khoảng 60 tấn). Tổng khối lượng của Kim Tự Tháp Cheops vào khoảng 6,5 triệu tấn
Nhân công thực hiện:
Theo một số tài liệu thì để hoàn thành Kim Tự Tháp Cheops, một số lượng lớn nô lệ đã được sử dụng. Tuy nhiên theo một số thông tin khác thì công trình này là thành quả của hàng trăm ngàn nông dân. Những người này chỉ phải xây dựng Kim Tự Tháp 3 tháng trong năm (mùa lũ của sông Nile) và kéo dài trong vòng 20 năm.
Sử dụng những thanh gỗ tròn để kéo đá từ nơi khác đến
Đắp các con dốc dài bằng bùn để kéo đá lên
3.Lăng Môdôlơ
Lăng Môdôlơ lăng mộ vua Môdôlơ (Mausole, Mausolus) - một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại, xây dựng vào khoảng năm 350 tCn. ở thành phố Halicacnaxơ (Halicarnasse), thủ đô Vương quốc Cari (Carie) nằm ở Tây Á, sát biển Êgiê (Égée).
Công trình bắt đầu khởi dựng lúc vua Môdôlơ còn sống, nhằm thể hiện sự phồn vinh và hùng mạnh của đất nước mình sau khi đã thống nhất được Vương quốc Cari. Công việc còn dở dang thì nhà vua băng hà, hoàng hậu Actêmit II (Artémise II) đã tiếp tục và hoàn thành công trình, làm rạng rỡ tên tuổi nhà vua qua kiệt tác kiến trúc này.
Công trình được xây dựng bằng đá, dưới sự chỉ dẫn của các kiến trúc sư Pytêôt (Pythéos) và Xatyarôt (Satyaros), phần điêu khắc do Xcôpat (Scopas), Bryaxit (Bryaxis), Lêôkharêt (Léokharês) và Timôtêôt (Timotheos) đảm nhiệm.
Công trình có hình khối, gồm ba phần: dưới cùng là phần đế – tầng để thi hài mà dưới chân cũng là một hệ bậc tam cấp; phần giữa bên trong là phòng tế lễ và bên ngoài có hàng cột bao quanh, có tượng trang trí; phần trên cùng là khối mái có dạng kim tự tháp gồm 24 bậc, được kết thúc ở đỉnh bằng một cụm tượng (tượng Môdôlơ và Actêmit).
Công trình bị huỷ hoại dần do thời gian, chiến tranh và động đất, đến thế kỉ 16 thì sụp đổ hoàn toàn (khi quân Thổ Nhĩ Kì xâm lăng vùng này).
Ngành khảo cổ học đã bỏ nhiều công sức thu nhặt các di vật của công trình quan trọng này và cũng có nhiều dự án phục chế, trong đó dự án của Kiêcsơn (làm những năm 1923 – 28) được coi là chân thực nhất. Lăng môdôlơ chẳng những là một kiệt tác của kiến trúc cổ mà còn là một mẫu mực cho loại hình lăng mộ, từ đó từ Môdôlơ trở thành danh từ chung để chỉ lăng mộ của các bậc vĩ nhân, các vua chúa
(Ph. Mausolée; A. Mausoleum; N. Mavzolej).
LĂNG MỘ VUA MAUSOLUS TẠI HALICARNASSUS (tại Thổ Nhĩ Kì hiện nay)
Do Hoàng hậu Artimise xây dựng cho phu quân Mausolos - Vua xứ Caria
Hoàn tất: năm 353 TrCN
Cao gần 45 m, chiếm một diện tích hơn 1.216 m2
Lăng nằm trên một bậc đài vòng có kích thước 38x32 m
Bị phá hủy vào thế kỷ 15 khi các kỵ sĩ của Thánh John tràn vào, đốt đá cẩm thạch để làm vữa vôi và dùng đá công trình để gia cố thành trì của họ ở Bodrum
Năm trong số những điêu khắc gia cừ khôi nhất của Hy Lạp được trưng dụng để trang trí Lăng: Scopas, Bryaxis, Leochares, Timotheos và Praxiteles. Bốn người, mỗi người chịu trách nhiệm trang trí một mặt của lăng, trong khi người thứ năm đảm trách việc thực hiện hiện tượng chiếc xe ngựa tứ mã kéo khổng lồ đặt trên đỉnh kim tự tháp bậc thang
Di tích hiện nay
4.TƯỢNG THẦN HÊLIÔT
Do nhà điêu khắc nổi tiếng Charles ở Lindos thực hiện vào năm 304 trước CN, để chào mừng “Hiệp ước hòa bình” giữa Antigonid và Rhodes
Cao khoảng 110 feet = 33m, tương đương một tòa nhà hiện đại với 10 tầng
Bị gãy ở đầu gối trong trận động đất kinh hoàng năm 266 trước CN
Năm 654 sau CN, Arab đánh chiếm đảo, họ tháo gỡ phần còn lại của pho tượng và bán cho một người Do thái ở Syrie
Tượng thần Hêliôt , một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại. Trong chuyện thần thoại Hi Lạp, Hêliôt là vị thần thời cổ Hi Lạp, hiện thân của Mặt Trời (Ph. Helios; tiếng Hi Lạp: Hellos – có nghĩa là “Mặt Trời”). Hêliôt là con trai của thần Hypêriông (Hypérion) và thần Teia (Theia), và là anh trai của nữ thần ánh sáng Êôt (Éos) và thần Mặt Trăng Xêlênê (Seléné). Thần biển Clymen (Clymēne) có nhiều con trai, trong đó có con thần mã Phaêtông (Phaéton). Thần Hêliôt ngày nào cũng cưỡi trên cỗ xe thần mã (cỗ xe bốn ngựa) với ánh vàng lấp lánh trên bầu trời đi suốt từ đông sang tây, và ban đêm từ dưới đại dương đi lên, say sưa bay lượn vòng quanh cực bắc, đi giám sát loài người, cho nên chẳng có việc gì xảy ra trên mặt đất mà thần không biết.
Thần Hêliôt ưa thích lưu lại ở Êtiôpi (Éthiopie) hoặc trên đảo Rôt (Rhodes) và chiếm hữu “đàn” chiên thánh. Những biểu hiện và tín ngưỡng của thần Hêliôt chiếm một vị trí không lớn lắm và đã bị lu mờ một cách rõ nét bởi thần ánh sáng – thi ca Apôlông (Apollon). Thần Hêliôt đã được tôn thờ ở đảo Rôt. Nhưng sớm nhất, chỉ đến đầu thế kỉ 5 tCn., Hêliôt mới được xem như vị thần chính ở đảo này. Dân chúng trên đảo Rôt đã xem ông là vị thần che chở, bảo vệ họ; một pho tượng khổng lồ – tượng thần Hêliôt với vành mũ vương miện toả tia đã được tạc và đặt tại cảng, nơi cử hành tế lễ thần. Tín ngưỡng thần Hêliôt đã đạt được một tầm quan trọng mới, xứng với đạo một thần Mặt Trời, đó là lối thoát của thuyết Platông (Platon) mới.
5.Tượng Thần Zơt
TƯỢNG THẦN ZEUS Ở OLYMPIA (Hy Lạp hiện nay)
Do Kiến trúc sư Pheidias thiết kế, thể hiện tư thế thần Zeus đang ngồi trên ngai vàng
Tượng được làm bằng ngà và vàng cao 13m (43ft) đặt trên một phần đế bằng đá cẩm thạch cao 1 m (3,3ft)
Năm 462 sau CN, một trận hỏa hoạn khủng khiếp đã tàn phá thành phố và thiêu hủy bức tượng
Tượng thần Zơt (Latinh: Zeus) cao 17 m, khắc hoạ hình ảnh thần Zơt ngồi trên ngai vàng đầu chạm trần đền, khuôn mặt hiền từ, đôi mắt màu hồng tinh anh, nhìn thẳng, lông mày và lông mi đen nhánh, mũi dọc dừa với chòm râu rậm nhìn ra phía trước, đôi môi dày đầy cương nghị.
Dáng ngồi bệ vệ oai nghiêm trên ngai vàng, tay trái cầm gậy chỉ huy, tay phải dựa vào thành ngai. Tất cả phần nửa trên của tượng được dát bằng ngà voi, vàng nhạt ngả về màu hồng phơn phớt, tạo cho thần Zơt một sức sống mãnh liệt.
Nửa thân dưới của tượng phủ một “tấm vải” bằng vàng dát mỏng, có chạm trổ dưới thân áo những con vật. Trên thân áo là những ngôi sao và những đoá hoa xinh xắn. Chân thần đi dép vàng đặt trên một chiếc bàn trang trí những con sư tử vàng. Ngai vàng cũng bằng ngà và có chạm khắc những trận đấu điền kinh ở Ôlympi (Olympie)
Đến nay, trên quảng trường chính Antit (Altis) ở Ôlympi chỉ còn lại một ít di tích của đền thờ và tượng thần Zơt.
Thần Zơt là vị thần biểu tượng sức mạnh của người dân Hi Lạp, đứng đầu
trong 12 vị thần được người Hi Lạp tôn thờ, sống trên ngọn núi Ôlympơ (Olympe; Hi Lạp). Theo thần thoại Hi Lạp, thần Zơt mỗi khi lên cỗ xe thần mã đều mặc bộ áo vàng, cầm một ngọn roi vàng để điều khiển đôi thần mã có bộ vó bằng đồng và hàng lông bờm bằng vàng chói lọi.
Di tích được khai quật hiện nay
6.Vườn treo Babylon
Được vua NebuchADnezzarII xây dựng vào khoảng năm 605-562 TCN tại Euphrates (Iraq hiện nay). Ông coi đó như một món quà dành cho người vợ, một người đã trưởng thành trong vùng đất quanh Media, khao khát cảnh núi rừng hùng vĩ.
MÔ TẢ THỜI CỔ ĐẠI .
Người đầu tiên đề cập đến vườn treo là Berossus, một người dân thành Babylon đã viết về vườn treo vào khoảng năm 270 TCN
“Vua xây một cung điện mới trong 15 ngày, nền móng bằng đá hay các bãi đất có hình bậc thang tựa như phong cảnh núi rừng.”
Theo truyền thuyết, vườn treo Babylon (Babylon) là món quà đặc biệt của nhà vua Nabusatnêzan (Nabuchadnezzan) tặng hoàng hậu được sủng ái là công chúa xứ Mêđet (Mēdes).
Vườn treo Babylon dựng ngay cạnh cung điện nhà vua, bên bờ sông Ơphơrat (Euphrate) thuộc lưu vực Lưỡng Hà, cách thành Batđa (Baghdad), Irăc 50 km về phía nam. Vườn được xây trên một quả đồi nhỏ, có dạng vuông gồm bốn tầng, tầng nọ cách tầng kia 25 m, mỗi tầng là một vườn nối nhau bằng những cầu thang khá rộng. Tầng dưới cùng có diện tích là 60.516 m2, nằm trên một hệ thống cột gồm 625 cái. Hệ thống cột này càng lên cao càng thu hẹp dần, số lượng cột ít đi, đến tầng 2 có 441 cột, tầng 3 có 289 cột, tầng trên cùng có 169 cột, kích thước cũng nhỏ dần. Diện tích tầng trên cùng chỉ còn bằng nửa tầng dưới cùng.
Toàn bộ vườn treo giống như một chiếc tháp giật cấp rất phổ biến ở lưu vực Lưỡng Hà. Nền của tầng làm bằng đá tảng, mỗi viên dài 5 m, rộng 1,2 m, được phủ nhựa, sau đó lát gạch và cuối cùng phủ một lớp chì, trên đổ một lớp đất màu mỡ. Mỗi tầng được xây theo kiểu vòm cong.
Vườn có đủ hoa thơm, cỏ lạ, các loại cây quý hiếm được đưa về từ những vùng mà nhà vua đến xâm lược. Nước được lấy từ 3 giếng có máy thuỷ lực quay với hệ thống gàu nước đưa lên cao chảy theo các rãnh thoai thoải tưới cho toàn khu vườn. Do vườn làm theo hướng gió nên hương thơm lan toả cả một vùng rộng lớn.
Vườn treo Babylon đánh dấu một thời vàng son của lịch sử vùng Lưỡng Hà, thời kì phát triển rực rỡ của vương quốc Canđê (Chaldée), còn gọi là Tân Babylon. Nhà vua Nabusatnêzan trị vì đất nước được 44 năm thì qua đời. Vườn treo Babylon cũng tàn lụi theo, sau bị chôn vùi dưới những lớp đất cát dày từ 10 đến 12 m.
Vườn treo hiện nay
7.Đền Actêmit
ĐỀN THỜ NỮ THẦN ARTEMIS Ở EPHESUS ( Thổ Nhĩ Kì hiện nay)
Xây dựng bằng đá cẩm thạch, vào khoảng năm 550 TrCN, do kiến trúc sư Chersiphron đảm nhận
Là nơi thờ tượng vị nữ thần huyền bí (“Nữ thần đi săn của người Ephesia”)
Có kích thước 55 x 110 m tính ở bậc thang phía trên, ba phía là một dãy cột gồm hai hàng bao quanh, một chiếc cổng có mái che với hàng cột sâu phía trước lối ra vào
Chỉ một phần rất ít của công trình còn tồn tại cho đến nay, người ta chỉ bảo quản được bục đài vòng của đền vừa khai quật và cột đền được gia cố bằng bê tông.
Đền Actêmit , một trong bảy kì quan của thế giới cổ đại được xây dựng từ năm 353 tCn., ở thành phố Êphedut (Ephesus; thành phố cổ ở Thổ Nhĩ Kì) nằm trên bờ biển Êgiê (Ph. Égée; A. Aegean Sea) để thờ Actêmit (Ph. Artémise) – nữ thần săn bắn, con của thần Zơt (Latinh: Zeus; Ph. Jupiter) và thần Lêto (Léto), em gái của thần ánh sáng - thi ca Apôlông (Apollon).
Theo thần thoại Hi Lạp, thần Actêmit là một trinh nữ, trong trắng, có vũ khí - cung tên và có thể giết chết một cách tàn nhẫn những ai dám xúc phạm, lăng nhục mình. Actêmit đã tự biến thành con hươu Actêông và cho phép đàn chó của mình cắn xé nghiến ngấu.
Là nữ thần thời Hi Lạp cổ, xuất thân từ một
“cô chủ của các thú vật hoang dã” ở đảo Cret (Crète; Hi Lạp) cổ đại, người bảo vệ ác thú, chim muông. Nhưng trước hết, Actêmit là người đi săn, nên áo dài được xắn lên để dễ bước, cầm cung và bao đựng tên, có hộ vệ là một con hươu cái hoặc một con chó; ở Tôrit (Tauride) Actêmit là một nữ thần sao chiếu mệnh, chế ngự trăng lưỡi liềm;
ở Êphedut, hình ảnh nữ thần được Đông phương hoá, thành một thần – mẹ nhiều vú. Trên đầu đội mũ, thân dưới nịt chặt. Actêmit là một đối tượng của tín ngưỡng dân gian, là vị thần được toàn thế giới những người Hi Lạp tôn thờ – ở tất cả các đảo và biển Êgiê [ở Đêlôt (Délos; đảo ở Hi Lạp) ngay từ đầu thế kỉ 7] ở Châu Á, hoặc ở phương Tây [ở Macxây (Marseille; Pháp), Xyracuxa (Syracusa; Italia)].
Đền thờ thần Actêmit là ngôi đền đẹp nhất trong các ngôi đền đương thời; được xây dựng và hoàn thành sau đúng 120 năm, do kiến trúc sư Khecxiphơrôn và người con trai của ông là Mêtaghen thiết kế và xây dựng bằng những tảng đá và những chiếc cột khổng lồ bằng đá hoa cương được chạm trổ tinh vi, lộng lẫy. Sau đó, bị Êrôxtơrat (Erostrate), một tên hiếu danh đốt cháy. Ngôi đền đã được xây dựng lại. Năm 203 tCn., thành Êphedut bị đánh chiếm và đền bị bọn xâm lược đập phá để tìm vàng bạc châu báu.
BẢY KÌ QUAN MỚI CỦA THẾ GIỚI ( Do 100 triệu người bình chọn tháng 7.2007 )
1. Đấu trường La Mã (Italia)
2. Vạn Lý Trường Thành (Trung Quốc)
3. Đền Tajơ Mahan (Ấn Độ)
4. Khu di tích Pêtơra (Joocđani)
5. Tượng chúa Giêsu ở Riô Đê Janâyrô (Braxin)
6. Khu di tích Chichen Itxa (Mêhicô)
7. Pháo đài Machu Pichu (Pêru)
1. Đấu trường La Mã (Italia)
Đấu trường Côlôxêum (theo tiếng Latinh – Colosseum), Côlôxêô (tiếng Italia – Colosseo), hoặc Côlizê (tiếng Pháp – Colisée)], một trong bảy kì quan mới của thế giới, được biết đến lần đầu tiên dưới cái tên Latinh – Amphitheatrum Flavium hoặc theo tiếng Italia – Anfiteatro Flavio.
Là một đấu trường lớn ở thành phố Rôma, gồm sân đấu hình êlip (kích thước 86 m ´54 m) và khán đài có 80 hàng bậc thang, chia làm 4 tầng, chứa được 50 nghìn khán giả.
Được xây bằng đá, kết cấu chịu lực bằng gạch và bê tông. Kiến trúc hùng vĩ nhờ hình khối lượn tròn mềm mại và phân vị theo chiều cao thành 4 tầng bằng kiến trúc cổ điển khác nhau.
Đấu trường được khởi công xây dựng khoảng năm 70 – 72 sau Cn., dưới thời hoàng đế Vexpazian (Vespasian); chính thức hoàn thành và được hoàng đế Titut (Titus) khánh thành năm 80 sau Cn., bằng một nghi thức thể thao – thi đấu điền kinh trong suốt 100 ngày. Công trình kiến trúc lớn này còn được chỉnh sửa nhiều vào năm 82 sau Cn., dưới thời hoàng đế Đômitian (Domitian).
Đấu trường Côlôxêô được sử dụng gần 500 năm theo những cứ liệu về nhiều trận đấu đã được tổ chức ở đây cho đến thế kỉ 6 - rất lâu sau khi Đế chế La mã sụp đổ (năm 476).
Ngoài sử dụng làm nơi thi đấu của võ sĩ, Đấu trường còn được dùng làm nơi biểu diễn công chúng, tập trận giả trên biển, săn thú, diễn kịch cổ điển.
Thời Trung cổ, công trình này dần dần không còn được sử dụng làm nơi giải trí nữa mà chuyển thành một số nhà ở, cửa hàng, nhà thờ, pháo đài...
Hiện nay, dù đã bị hoang phế nhiều do động đất và nạn cướp phá, đấu trường Côlôxêô từ lâu vẫn được xem là biểu tượng của Đế chế La Mã và là một trong những mẫu kiến trúc La Mã đẹp nhất còn sót lại.
Đây là điểm tham quan hấp dẫn ở thành phố Rôma và vẫn còn nhiều liên hệ với nhà thờ Cơ đốc.
Hằng năm, vào dịp lễ Phục sinh, Đức giáo hoàng vẫn có cuộc diễu hành cầm đuốc đến Đấu trường Côlôxêô.
2. Vạn Lý Trường Thành (Trung Quốc)
(Wanlichangcheng; cg. Trường Thành - Changcheng), một trong bảy kì quan mới của thế giới. Là bức tường thành nổi tiếng của Trung Quốc, được xây dựng từ thời cổ đại - liên tục từ thế kỉ 5 tCn. (khởi công năm 420 tCn.) cho tới thế kỉ 16, nhằm bảo vệ Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Mông Cổ, người Tuôc (Türk), và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu.
Nằm trên địa bàn 6 tỉnh Miền Tây, Tây Bắc và Đông Bắc Trung Quốc, bức tường thành trải dài 6.700 km , từ Sơn Hải Quan (Shanhaiguan; thuộc tỉnh Hà Bắc - Hebei) trên bờ biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ (đất Trung Quốc gốc) và Mãn Châu, tới vùng phía đông nam khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.
Lúc đầu là những đoạn thành không liên tục, được bắt đầu xây dựng từ thế kỉ 5 tCn.; nhưng đến đời Tần Thuỷ Hoàng (Qin Shihuang) - Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, những năm 220 tCn. - 200 tCn. đã có những đợt huy động lớn về nhân lực (30 vạn người) cho nối liền các đoạn thành của các nước Yên (Yan), Triệu (Zhao), Tần (Qin). Các triều đại sau cũng đều góp sức tu bổ, đặc biệt vào triều Minh , xây thêm thành một bức tường thành liên tục, có chỗ đến hai, ba lớp.
Tuy nhiên, nổi tiếng nhất là phần tường thành do Tần Thuỷ Hoàng ra lệnh xây , nằm ở phía bắc xa hơn phần tường thành được xây dưới thời nhà Minh, và hiện nay chỉ còn sót lại ít di tích.
Vạn Lí Trường Thành được xây bằng gạch vỡ, đá tảng, đất. Cấu trúc thành có tường thành, cửa ải, đài thành, phong hoả đài... chạy liên tục vượt qua cả những đỉnh núi cao, là một trong những công trình có quy mô lớn nhất của loài người. Năm 1987, Vạn Lí Trường Thành được công nhận là Di sản văn hoá thế giới.
3. Đền Tajơ Mahan (Ấn Độ)
(Tādj Mahãll; cg. lăng Tajơ Mahan), một trong bảy kì quan mới của thế giới. Là công trình kiến trúc ở cách thành phố Agra (Âgra; bắc Ấn Độ) 2 km, do vua Sa Jahan (Shãh Jahãn) chỉ huy xây dựng khoảng năm 1630 (hoàn thành năm 1652, tức 22 năm sau đó) để cất giữ thi hài người vợ yêu quý của mình là hoàng hậu Acjuman Banu Bêgam (Arjumand Bãnũ Begam).
Tác giả chính của công trình là kiến trúc sư người Iran – Uxtat Ixa (Ustad Isa). Lăng Tajơ Mahan là di sản của lối kiến trúc Ấn - Hồi, vừa uy nghiêm lộng lẫy, mà vẫn rất tinh tế, nhẹ nhàng, có sức cuốn hút và làm rung động hàng triệu trái tim du khách trên khắp thế giới. Đó là biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu, với những “giọt lệ rơi” được tạc bằng đá cẩm thạch và thể hiện niềm tin tuyệt đối vào thánh Ala (Allah).
Công trình được bố trí trên một khu đất hình chữ nhật (kích thước 580 ´ 300 m), kiến trúc toà lăng đặt trên một khối bệ có mặt hình vuông (56,7 ´ 56,7 m), cao 5,4 m có hình khối vươn cao thanh thoát.
Phần chính của công trình là toà lâu đài bát giác cao 74 m với mái vòm đồ sộ. Toàn bộ công trình được xây bằng đá cẩm thạch trắng kết hợp với đá sa thạch đỏ [loại đặc biệt được lấy từ Rajaxtan (Rajasthan) và Đêli (Dehli)] và một số loại đá quý khác. Cẩm thạch trắng là loại đá có thể ứng ngẫu với mọi khoảnh khắc thay đổi theo thời gian.
Mỗi thoáng chạm nhẹ của ánh sáng theo chu kì lên nó đều phản chiếu một thứ sắc màu riêng quyến rũ đến lạ lùng, nhẹ nhàng, dịu dàng lúc toả sáng, chói loà giữa trưa và như ngọn lửa thiêng khi đêm về.
Bên trong gian chính giữa lăng, trên tầng hai là mộ của vua và hoàng hậu: gồm hai quan tài bằng đá cẩm thạch màu hồng nhạt - được khảm bằng 12 loại đá quý ẩn hiện nhiều màu sắc trên nền đá cẩm thạch trắng trang trí nhiều hoạ tiết hình học, hoa lá và những dòng chữ Arập chạy ngang trích từ kinh Kôran như mang đến những thông điệp từ Thượng đế.
Tại 4 góc của bệ vuông, bên cạnh toà lâu đài là 4 cột tháp sừng sững vây quanh (cao 40 m) - kiểu tháp minarê của các nhà thờ Hồi giáo: với quan niệm Hồi giáo, số 4 tượng trưng cho sự thiêng liêng, bất diệt và vì vậy, có lẽ sẽ không thể có cách bày tỏ tình yêu nào ý nghĩa hơn thế.
Công trình được xây dựng trong hơn 20 năm với sức lao động của hơn hai vạn thợ và hơn một nghìn thớt voi dùng để chuyên chở. Người kiến tạo nên phần hồn của Đền thờ là kiến trúc sư Uxtat Ixa.
Những hạng mục khác do nhiều khu vực đảm nhiệm: thợ thủ công đến từ vương quốc Ôttôman (Thổ Nhĩ Kì); tạo dáng vườn cây là những nghệ nhân vùng Kasơmia (Kashmir); tạc chữ do thợ người Serat (Sheraz) đảm nhiệm; cắt đá, chạm khắc, xây dựng mái vòm do người Bukhara (Bukhara), Cônxtantinôp (Constantinople) và Xamackan (Samarkand) thực hiện.
Ngoài ra, vật liệu cũng được chọn lọc từ những vùng nổi tiếng nhất.
Xung quanh lăng là vườn cây, hồ nước. Có thể nói, vua Sa Jahan may mắn đã chọn được một mẫu kiến trúc đẹp lộng lẫy đến kì lạ do tình yêu vĩ đại mà ông đã dành cho bà. Bởi lẽ nhìn vào đó, dường như mọi nét đẹp của người phụ nữ đều được trình bày hết sức tinh xảo.
Từ chiếc vườn hình chữ nhật tựa dáng một nét nghiêng của người phụ nữ cho đến vòm cổng ra vào như chiếc khăn che mặt của người con gái đạo Hồi trong đêm hôn lễ.
Đền Tajơ Mahan kiêu kì dưới mọi góc cạnh, vượt qua không gian và thời gian. Có người đã cho rằng nếu thật sự có thiên đường thì chỉ nơi đây dễ làm người ta tin nhất.
Đi bộ dưới khu vườn giữa hai hàng cây quanh năm chim hót, với hồ nước trong vắt in bóng hình ẩn hiện toà lâu đài, xung quanh là không khí tĩnh lặng đem lại cảm giác thư thái, nhẹ nhàng và hoài cổ về một triều đại huy hoàng đã lùi xa vào quá khứ.
Đây là một địa danh du lịch nổi tiếng thế giới và là di sản văn hoá thế giới. Hằng năm, đền Tajơ Mahan đón nhận hàng triệu khách du lịch. Đã 350 năm nay, lạc lõng một mình giữa sự phát triển chóng mặt của cuộc sống đô thị, nó vẫn là một biểu tượng của tình yêu bất tử, là điểm hẹn của những cuộc trở về để chiêm ngưỡng vẻ đẹp trong ánh sáng kì ảo, nhất là vào những đêm trăng sáng nơi đây.
4. Khu di tích Pêtơra (Joocđani)
(Tiếng Anh: Petra), một trong bảy kì quan mới của thế giới. Di tích một thành phố cổ đã tồn tại từ cuối thiên niên kỉ thứ hai trước Công nguyên đến thế kỉ 15 ở miền Nam Joocđani; từ thế kỉ thứ hai tCn. đến thế kỉ 1, là thủ đô của vương quốc Nabatây.
Vào đầu thế kỉ 19, thế giới bên ngoài hoàn toàn không biết về “thành phố mất tích” Pêtơra mà nhân dân địa phương luôn tìm cách giữ kín nó. Nhưng rồi một người Thuỵ Sĩ là Iôhan Buckhac (Johann Burckhart) đã cố gắng đi tìm và cuối cùng đã tìm thấy mộtbáu với vẻ đẹp đáng kinh ngạc cùng những công trình kiến trúc thiêng liêng, ở nơi hoàn toàn cách biệ
File đính kèm:
- de_tai_bay_ky_quan_cua_the_gioi_co_dai.ppt