Chương 1: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1. TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
1.1.1. Triết học và đối tượng của triết học
1.1.1.1. Khái niệm triết học
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ III (TrCN)(1).
- Ở phương Đông:
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và
nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao.
+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia -
nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người
263 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 669 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Triết học Mác - Lênin, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI GIẢNG
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Biên soạn: NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
ĐỖ MINH SƠN
TRẦN THẢO NGUYÊN
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
1 Chương 1: TRIẾT HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.1. TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
1.1.1. Triết học và đối tượng của triết học
1.1.1.1. Khái niệm triết học
Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế
kỷ thứ III (TrCN)(1).
- Ở phương Đông:
+ Trung Quốc: Người Trung quốc cổ đại quan niệm “ triết” chính là “ trí”, là cách thức và
nghệ thuật diễn giải, bắt bẻ có tính lý luận trong học thuật nhằm đạt tới chân lý tối cao.
+ Theo người Ấn Độ: triết học được đọc là darshana, có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang
hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
- Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp được la tinh hoá là Philôsôphia -
nghĩa là yêu mến, ngưỡng mộ sự thông thái. Như vậy Philôsôphia vừa mang tính định hướng, vừa
nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người
Tóm lại: Dù ở phương Đông hay phương Tây, triết học được xem là hình thái cao nhất của
tri thức, nhà triết học là nhà thông thái có khả năng tiếp cận chân lý, nghĩa là có thể làm sáng tỏ
bản chất của mọi vật.
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng bao hàm những nội dung giống nhau, đó là:
triết học nghiên cứu thế giới một cách chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận
động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng
nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Khái quát lại ta có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới đó.
1.1.1.2. Nguồn gốc của triết học
Triết học xuất hiện do hoạt động nhận thức của con người nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống,
song với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học không thể xuất hiện cùng sự xuất
hiện của xã hội loài người, mà chỉ xuất hiện khi có những điều kiện nhất định.
- Nguồn gốc nhận thức:
(1) TrCN: Trước Công nguyên
3
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
+ Đứng trước thế giới rộng lớn, bao la, các sự vật hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con
người có nhu cầu nhận thức thế giới bằng một loạt các câu hỏi cần giải đáp: thế giới ấy từ đâu mà
ra?, nó tồn tại và phát triển như thế nào?, các sự vật ra đời, tồn tại và mất đi có tuân theo quy luật
nào không? ... trả lời các câu hỏi ấy chính là triết học.
+ Triết học là một hình thái ý thức xã hội có tính khái quát và tính trừu tượng cao, do đó,
triết học chỉ xuất hiện khi con người đã có trình độ tư duy trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống
hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
- Nguồn gốc xã hội:
Lao động đã phát triển đến mức có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động
chân tay, xã hội phân chia thành hai giai cấp cơ bản đối lập nhau là giai cấp chủ nô và giai cấp nô
lệ. Giai cấp thống trị có điều kiện nghiên cứu triết học. Bởi vậy ngay từ khi Triết học xuất hiện đã
tự mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội
nhất định.
Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau, mà sự phân chia chúng chỉ có tính
chất tương đối.
1.1.1.3. Đối tượng của Triết học; Sự biến đổi đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử
* Khi mới xuất hiện, Triết học Cổ đại còn được gọi là Triết học tự nhiên - bao hàm trong
nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng. Đây là nguyên nhân sâu xa làm nảy
sinh quan niệm sau này cho rằng Triết học là khoa học của mọi khoa học.
* Thời kỳ Trung cổ, ở Tây Âu khi quyền lực của giáo hội Thiên chúa bao trùm mọi lĩnh vực
đời sống xã hội thì Triết học trở thành một bộ phận của thần học. Triết học chỉ có nhiệm vụ lý giải
và chứng minh cho sự đúng đắn của nội dung trong kinh thánh. Triết học tự nhiên bị thay thế bởi
nền Triết học kinh viện.
* Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18, để đáp ứng yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn
khoa học chuyên ngành có tính chất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là các khoa
học độc lập. Triết học lúc này có tên gọi là Siêu hình học - Khoa học hậu vật lý. Đối tượng của
Triết học thời kỳ này là nghiên cứu cái ẩn dấu, cái bản chất đằng sau các sự vật, hiện tượng “vật
thể” có thể thực nghiệm được.
+ Triết học duy vật dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh
chóng, đạt tới đỉnh cao mới với các đại biểu như Ph. Bây cơn, T.Hốpxơ (Anh), Diđrô, Hen Vêtiúyt
(Pháp), Xpinôda (Hà Lan)...
+ Mặt khác, tư duy Triết học cũng được phát triển trong các học thuyết duy tâm mà đỉnh
cao là Triết học Hêghen.
+ Song, cũng chính sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng
bước làm phá sản tham vọng của Triết học muốn đóng vai trò “Khoa học của mọi khoa học”, mà
Triết học Heghen là Triết học cuối cùng mang tham vọng đó. Heghen xem Triết học của mình là
một hệ thống phổ biến của nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt
khâu phụ thuộc vào Triết học.
* Đầu thế kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, cùng với sự chuyển biến tính chất từ
khoa học thực nghiệm sang khoa học lý thuyết là cơ sở khách quan cho triết học đoạn tuyệt triệt
4
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
để với quan niệm “khoa học của mọi khoa học”. Triết học Mác - Triết học duy vật biện chứng ra
đời thể hiện sự đoạn tuyệt đó. Triết học Mác xít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp
tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên
cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
* Do tính đặc thù của Triết học là xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra
một hệ thống lý luận về chỉnh thể đó.Và điều đó chỉ thực hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ
lịch sử của khoa học, lịch sử của bản thân tư tưởng Triết học. Cho nên, vấn đề tư cách khoa học
của Triết học và đối tượng của nó đã gây ra cuộc tranh luận kéo dài cho đến hiện nay.
Tóm lại, cái chung trong các học thuyết Triết học từ cổ tới kim là nghiên cứu những vấn đề
chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của
tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.
1.1.2. Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan
* Thế giới quan: Là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con
người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới.
*Thế giới quan là sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin: Tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự
hình thành thế giới quan; niềm tin định hướng cho hoạt động của con người, từ đó tri thức trở
thành niềm tin, niềm tin phải trên cơ sở tri thức.
* Các loại thế giới quan (phân chia theo sự phát triển):
+Thế giới quan huyền thoại: Là phương thức cảm nhận thế giới của người nguyên thuỷ, có
đặc điểm là các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật
và cái ảo, cái thần và cái người hoà quyện vào nhau thể hiện quan niệm về thế giới.
+ Thế giới quan tôn giáo: Niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ yếu, tín ngưỡng cao hơn lý trí,
cái ảo lấn át cái thật, cái thần trội hơn cái người.
+ Thế giới quan triết học diễn tả quan niệm dưới dạng hệ thống các phạm trù, qui luật đóng
vai trò như những bậc thang trong quá trình nhận thức. Như vậy, Triết học được coi như trình độ
tự giác trong quá trình hình thành phát triển của thế giới quan. Triết học là hạt nhân lý luận của
thế giới quan, đóng vai trò định hướng, củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi
cộng đồng trong lịch sử.
1.2. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA
DUY TÂM TRIẾT HỌC.
1.2.1. Vấn đề cơ bản của triết học
* Khái niệm vấn đề cơ bản của triết học: Triết học cũng như các khoa học khác phải giải
quyết rất nhiều những vấn đề có liên quan với nhau, trong đó vấn đề cực kỳ quan trọng, là nền tảng
và là điểm xuất phát để giải quyết những vấn đề còn lại được gọi là vấn đề cơ bản của triết học.
Ăngghen định nghĩa vấn đề cơ bản của triết học như sau: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi Triết
học, đặc biệt là Triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.1
1 Mác-Ăngghen toàn tập Nxb, Chính trị quốc gia, HN, 1995, t.21, tr.403
5
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
* Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
+ Mặt thứ nhất: Giữa tư duy và tồn tại thì cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
+ Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thể giới hay không?
* Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:
+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại
bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta,
không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.
+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.
+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và
phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà
triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.
- Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết
khả tri hay bất khả tri.
+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.
1.2.2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
1.2.2.1. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết học thành hai
trường phái lớn:
+ Chủ nghĩa duy vật: Là những người cho rằng vật chất giới tự nhiên là cái có trước và
quyết định ý thức của con người; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ
nghĩa duy vật.
+ Chủ nghĩa duy tâm: là những người cho rằng ý thức, tinh thần có trước giới tự nhiên; học
thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
* Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của nó
Ngay từ thời cổ đại, khi xuất hiện triết học thì đã phân chia ra chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật từ đó đến nay luôn gắn với lịch sử phát
triển của khoa học và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật đã trải qua nhiều hình thức khác nhau, nhưng
đều có quan điểm thống nhất coi vật chất là cái có trước, quyết định ý thức, đều xuất phát từ bản
thân thế giới để giải thích thế giới. Cụ thể:
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác ngây thơ thời cổ đại:
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại mang tính trực quan nên ngây
thơ và chất phác, tuy còn nhiều hạn chế nhưng với nguyên tắc cơ bản là đúng. Trường phái này
giải thích giới tự nhiên từ chính bản thân tự nhiên, không viện dẫn thần linh hay thượng đế.
6
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
+ Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ thứ XVII - XVIII.
Là kết quả nhận thức của các nhà triết học từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII. Từ sự phát triển
rực rỡ của cơ học khiến cho quan điểm xem xét thế giới theo kiểu máy móc chiếm vị trí thống trị
và tác động mạnh mẽ đến các nhà duy vật.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Là kết quả nhận thức của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Mác, Ăngghen, Lênin đã kế thừa
những tinh hoa của các học thuyết trước đó, đồng thời khắc phục những hạn chế, sai lầm của chủ
nghĩa duy vật siêu hình, dựa trên những thành tựu của khoa học hiện đại đã sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết học Mác Lênin mang tính chất cách
mạng triệt để và biện chứng khoa học, không chỉ phản ánh hiện thực đúng như bản thân nó mà
còn là công cụ hữu ích giúp con người cải tạo hiện thực đó.
* Chủ nghĩa duy tâm và các hình thức cơ bản của nó:
+ Duy tâm chủ quan thừa nhận ý thức là tính thứ nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của
hiện thực. Mọi sự vật hiện tượng chỉ là phức hợp cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
+ Duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nhưng đó là thứ tinh thần
khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường
mang tên gọi khác nhau như: ý niệm; tinh thần tuyệt đối; lý tính thế giới...
Một hình thức biến tướng của chủ nghĩa duy tâm khách quan là chủ nghĩa duy tâm tôn giáo,
với sự thừa nhận thượng đế; chúa trời sáng tạo thế giới. Tuy nhiên có sự khác nhau đó là, chủ nghĩa
duy tâm tôn giáo thì lòng tin là cơ sở chủ yếu, đóng vai trò chủ đạo; còn chủ nghĩa duy tâm triết học
lại là sản phẩm của tư duy lý tính dựa trên cơ sở tri thức và lý trí.
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm:
+Về phương diện nhận thức luận, sai lầm của chủ nghĩa duy tâm bắt nguồn từ cách xem xét
phiến diện, tuyệt đối hoá, thần thánh hoá một mặt, một đặc tính nào đó của quá trình nhận thức
mang tính biện chứng của con người. Ví dụ: khả năng sáng tạo đặc biệt của tư duy, tính vượt
trước của ý thức đối với với hiện thực.
+Về phương diện xã hội, sự tách rời giữa lao động trí óc với lao động chân tay, và địa vị
thống trị của lao động trí óc đối với lao động chân tay trong các xã hội cũ đã tạo ra quan niệm về
vai trò quyết định của các nhân tố tinh thần. Mặt khác, các giai cấp thống trị và lực lượng xã hội
phản động ủng hộ, sử dụng chủ nghĩa duy tâm làm nền tảng lý luận cho những quan điểm chính
trị-xã hội của mình.
* Triết học nhị nguyên: vật chất và ý thức song song tồn tại, không có cái nào có trước, cả
hai đều là nguồn gốc tạo nên thế giới, triết học nhị nguyên có khuynh hướng điều hoà chủ nghĩa
duy vật với chủ nghĩa duy tâm. Xét về thực chất, Triết học nhị nguyên thể hiện sự dao động ngả
nghiêng, cuối cùng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
1.2.2.2. Thuyết khả tri; bất khả tri và hoài nghi luận
- Giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản “con người có nhận thức được thế giới không?”:
+ Thuyết khả tri( Thuyết có thể biết) là những nhà Triết học cả duy vật và duy tâm trả lời
một cách khẳng định: Con người có khả năng nhận thức được thế giới
7
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
+Hoài nghi luận xuất hiện từ thời Cổ đại (từ chữ Hy Lạp skeptikos và skiptomai có nghĩa
là tôi thẩm tra) mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học Hy Lạp cổ đại). Họ là những người đã luận
nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng
con người không thể đạt tới chân lý khách quan.
Hoài nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấy tranh chống hệ tư
tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài nghi đối với cả Kinh
thánh và các tín điều tôn giáo.
+Thuyết bất khả tri (thuyết không thể biết): là sự phát triển mặt tiêu cực của trào lưu hoài
nghi luận. Theo thuyết này, con người không thể hiểu được thế giới hay ít ra là không thể nhận
thức được bản chất của nó, hoặc có chăng chỉ là hiểu cái bề ngoài vì các hình ảnh về đối tượng do
giác quan con người mang lại không bảo đảm tính chân thực, từ đó họ phủ nhận khả năng nhận
thức của con người và các hình thức cơ bản của nó.
Đại biểu nổi tiếng nhất của “thuyết không thể biết” là Hium (nhà triết học Anh) và Cantơ
(nhà triết học Đức). Theo Hium, chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế nào,
mà cũng không thể biết được sự vật đó có tồn tại hay không. Còn Cantơ thì thừa kế nhận có một thế
giới sự vật tồn tại, ông gọi đó là “vật tự nó”; nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế
giới ấy mà chỉ là nhận thức những hiện tượng của nó mà thôi.
Thuyết không thể biết đã bị Hêghen và Phoiơbắc phê phán gay gắt. Song, đúng như Ph.
Ăngghen đã nhận xét, chính thực tiễn của con người đã bác bỏ thuyết không thể biết một cách
triệt để nhất. “Sự bác bỏ một cách hết sức đanh thép những sự vặn vẹo triết học ấy, cũng như tất
cả những triết học khác, là thực tiễn, chính là thực nghiệm và công nghiệp. Nếu chúng ta có thể
chứng minh được tính chính xác của quan điểm của chúng ta về một hiện tượng tự nhiên nào đó,
bằng cách tự chúng ta làm ra hiện tượng ấy, bằng cách tạo ra nó từ những điều kiện của nó, và
hơn nữa, còn bắt nó phải phục vụ mục đích của chúng ta, thì sẽ không còn có cái “vật tự nó”
không thể nắm được của Cantơ nữa”1.
1.3. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG
Trong lịch sử triết học không những có sự đối lập giữa CNDV và CNDT khi tìm hiểu bản
chất của thế giới, mà đồng thời còn phải trả lời các câu hỏi: thế giới là bất động, đứng im hay là
không ngừng vận động và phát triển? Các sự vật, hiện tượng của thế giới ở trạng thái cô lập, tách
rời nhau hay có liên hệ với nhau, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau.
Lịch sử đã biết đến hai quan điểm, hai cách xem xét nhìn nhận trái ngược nhau trong khi
giải đáp những câu hỏi trên. Đó là phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình
1.3.1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng
b. Phương pháp biện chứng a. Phương pháp siêu hình
+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái cô
lập, tách rời với các chỉnh thể khác và giữa
các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt
đối.
+ Thừa nhận đối tượng qua các mối liên
hệ của nó với các đối tượng khác và sự ảnh
hưởng, ràng buộc lẫn nhau giữa chúng.
1 C. Mác và Ăngghen: toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội, 1995, t.21, tr 406
8
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái vận
động biến đổi có khuynh hướng chung là phát
triển, có sự thay đổi về chất, mà nguyên nhân
của mọi sự biến đổi ấy là do nguồn gốc bên
trong đối tượng. Đó là sự đấu tranh của các
mặt đối lập.
+ Thừa nhận đối tượng ở trạng thái tĩnh
tại; nếu có biến đổi thì đấy chỉ là biến đổi về
mặt số lượng, nguyên nhân của mọi sự biến
đổi nằm ngoài đối tượng.
- Phương pháp biện chứng không chỉ
thấy những sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối
quan hệ qua lại giữa chúng, không chỉ thấy
sự tồn tại của sự vật mà còn thấy cả sự sinh
thành và sự tiêu vong của sự vật.
- Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy
sự vật riêng biệt mà không thấy mối liên hệ
qua lại giữa chúng; chỉ thấy sự tồn tại mà
không thấy quá trình sự phát sinh và tiêu vong
(Về bản chất là không hiểu được mối quan
hệ giữa vận động và đứng im, hay đứng im
chỉ là một hình thức vận động đặc biệt).
- Tư duy của nhà siêu hình chỉ dựa
trên những phản đề tuyệt đối không thể dung
nhau được, họ nói có là có, không là không.
Đối với họ, một sự vật hoặc tồn tại hoặc không
tồn tại, một hiện tượng không thể vừa là chính
nó lại vừa là cái khác, cái khẳng định và cái
phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau, v.v
- Phương pháp biện chứng thể hiện tư
duy mềm dẻo, linh hoạt trong sự phản ánh
hiện thực, - Phương pháp biện chứng thừa
nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên
cạnh cái “ hoặc là.. hoặc là” còn có cái “vừa
là... vừa là”; đối tượng hay chỉnh thể trong lúc
tồn tại là nó thì cũng đồng thời bao hàm sự tồn
tại không là nó; cái khẳng định và cái phủ định
vừa loại trừ nhau vừa gắn bó nhau. Do đó, nó
phản ánh hiện thực ngày càng chân thực chính
xác, và nó trở thành công cụ hữu hiệu giúp con
người nhận thức và cải tạo thế giới.
Nguồn gốc của phương pháp siêu hình:
Là bắt nguồn từ việc muốn nhận thức đối
tượng, trước hết con người phải tách đối tượng
ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở
trạng thái không biến đổi trong một không
gian và thời gian xác định. Tuy phương pháp
đó là cần thiết và có tác dụng trong một phạm
vi nhất định, nhưng thực tế thì hiện thực
không rời rạc và ngưng đọng như phương
pháp này quan niệm.
Tóm lại, phương pháp siêu hình là phương pháp xem sét sự vật trong trạng thái biệt lập,
ngưng đọng với một tư duy cứng nhắc; còn phương pháp biện chứng là phương pháp xét sự
vật trong mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau và trong trạng thái vận động biến đổi không ngừng
với tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
1.3.2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phương pháp biện chứng
* Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời Cổ đại. thể hiện rõ nét trong “thuyết
Âm - Dương” của triết học Trung Quốc, đặc biệt là trong nhiều học thuyết của triết học Hy Lạp cổ
đại. Các nhà triết học đều thấy các sự vật hiện tượng của vũ trụ sinh thành, biến hoá trong những
mối liên hệ vô cùng tận. Cách nhận xét thế giới như vậy, theo Ăngghen, là một cách nhận xét còn
nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng và là kết quả của một trực kiến thiên tài, song chưa
phải là kết quả cuả những sự nghiên cứu và thực nghiệm khoa học. Chính vì hạn chế này mà phép
9
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
biện chứng Cổ đại phải nhường bước cho phép siêu hình, phương pháp thống trị trong tư duy triết
học ở thế kỷ XVIII là điều không thể tránh khỏi. Đây là giai đoạn khám phá kết cấu, thuộc tính
của đối tượng.
* Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, bắt đầu từ Cantơ và hoàn
chỉnh ở Hêghen. Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển tư duy nhân loại, các nhà triết học cổ điển Đức
đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung của phép biện chứng. Tuy nhiên, đây mới chỉ
dừng lại ở biện chứng của khái niệm, của tinh thần, và tai hại hơn là họ cho rằng giới hiện thực chỉ
là sự sao chép của tinh thần, bởi vậy phép biện chứng cổ điển Đức là có tính chất duy tâm.
* Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lý
của phép biện chứng duy tâm, sau khi gạt bỏ tính chất duy tâm thần bí của nó, Mác - Ăng ghen
xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự
phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
1.4. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.4.1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận
1.4.1.1. Vai trò thế giới quan của triết học
* Tồn tại trong mối quan hệ với thế giới xung quanh, dù muốn hay không con người cũng
phải nhận thức thế giới và nhận thức bản thân mình. Những tri thức này cùng với niềm tin vào nó
dần dần hình thành nên thế giới quan.
* Thế giới quan là nhân tố định hướng cho quá trình hoạt động sống của con người. Thế
giới quan như một “thấu kính” qua đó con người xác định mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa
chọn cách thức đạt mục đích đó.
* Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá
nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định.
* Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan
phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các
khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
+ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối
lập nhau. Chính vì vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học biểu hiện bằng cách
này hay cách khác cuộc đấu tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.
Do vậy:
+ Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực giúp cho con người
sáng tạo trong hoạt động.
+ Thế giới quan sai lầm làm cho con người sống thụ động hoặc sai lệch trong hoạt động.
+ Việc nghiên cứu triết học giúp ta định hướng hoàn thiện thế giới quan.
1.4.1.2. Vai trò phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống quan điểm có tính nguyên tắc chỉ
đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
10
Chương 1: Triết học và vai trò của nó trong đời sống xã hội
* Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất
+ Tri thức triết học là hệ thống tri thức chung nhất về thế giới và vai trò con người trong thế
giới, nghiên cứu các qui luật chung nhất chi phối cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
+ Mỗi luận điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là
lý luận về phương pháp.
Việc nghiên cứu triết học giúp ta có được phương pháp luận chung nhất, trở nên năng động
sáng tạo trong hoạt động phù hợp với xu thế phát triển chung.
1.4.2. Vai trò của triết học Mác - Lê nin
Triết học Mác - Lênnin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư duy
triết học nhân loại. Nó được C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra và V.I.Lênin phát triển một cách
xuất sắc. Đó là chủ nghĩa duy vật biên chứng trong việc xem xét giới tự nhiên cũng như xem xét
đời sống xã hội và tư duy con người.
* Với tư cách là một hệ thống nhận thức khoa học có sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và
phương pháp: triết học Mác-Lênin như Lê nin nhận xét: “Là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn
bị” và “là một cô
File đính kèm:
- Triet_hoc.pdf