Sau nữa việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình ngưyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “ chúa tỉnh”- mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” –ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền , trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định . Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở {.] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường : “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.
20 trang |
Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Tìm hiểu yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIếT 116 BàI 28 tìm hiểu yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận I. Yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận a, Sau nữa việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình ngưyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn. Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “ chúa tỉnh”- mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” –ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền , trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định . Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở {...] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền. Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường : “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”. (Nguyễn ái Quốc, Thuế máu) b, ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương , sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “ cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “ Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ.” Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lai có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những vụ ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “ tấp nập” và “không ngần ngại”. (Nguyễn ái Quốc, Thuế máu) a, Sau nữa việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình ngưyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn. Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “ chúa tỉnh”- mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” –ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền , trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định . Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở {...] thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền. Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường : “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”. (Nguyễn ái Quốc, Thuế máu) b, ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương , sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những lính còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “ cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng: “ Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ.” Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lai có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những vụ ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “ tấp nập” và “không ngần ngại”. (Nguyễn ái Quốc, Thuế máu) a, Vị “ chúa tỉnh”- mỗi viên công sứ ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” –ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền , trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cỏ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường : “đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”. (Nguyễn ái Quốc, Thuế máu) b, Tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ.” Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuót trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “ tấp nập” và “không ngần ngại”. (Nguyễn ái Quốc, Thuế máu) a, Sau nữa việc săn bắt thứ vật liệu biết nói đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là chế độ lính tình nguyện đã gây ra những vụ nhũng lạm hết sức trắng trợn. Sự thật đó được thể hiện trong suốt quá trình bắt lính ở các tỉnh, huyện xã, thôn trong cả nước Việt Nam. Hoặc đi lính tình nguyện hoặc phải nộp tiền. b, Thế mà trong bản bố cáo với những người bị bắt lính, phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn khen thưởng và truy tặng những người đã hi sinh cho Tổ quốc còn tuyên bố về sự phấn khởi, tình nguyện đi lính của họ. Những lời nói trên hoàn toàn trái ngược với những sự thật về những hành động ngược đãi của nhà cầm quyền Pháp và Sài Gòn. Bài văn nghị luận thường vẫn cần phải có các yếu tố tự sự và miêu tả. Hai yếu tố này giúp cho việc trình bày luận cứ trong bài văn được rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn, và do đó, có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. Từ việc tìm hiểu trên, em có nhận xét gì về vai trò của các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn nghị luận? Các dân tộc anh em trênđất nước chúng ta đã sáng tạo ra muôn vàn truyện anh hùng đẹp. Có truyện đã trở thành trường ca lớn, như Đam San, Sinh Nhã v.v…Riêng chàng Trăng của dân tộc Mơ - nông và nàng Han của dân tộc Thái là hai truyện có nhiều nét giống với truyện Thánh Gióng ở miền xuôi. Mẹ chàng Trăng đã nằm mơ thấy một con thỏ trắng nhảy qua ngực mà thụ thai và đẻ ra chàng. Sợ tù trưởng phạt vạ, mẹ chàng bỏ chàng trên rừng, phó mặc cho trời đất. Suốt ngày chàng không nói,không cười, chỉ thích chơi khiên đao, Sau đó, chàng cưỡi ngựa đá khổng lồ do trời đất cho, đi giết một tên bạo chúa đến chiếm đất rồi cuối cùng trốn vào mặt trăng để đêm đêm soi sáng xuống dòng thác Pông –gơ - nhi những vầng sáng bạc. Còn nàng Han là một cô gái thông minh dũng cảm, lớn lên đi đánh giặc ngoại xâm. Quân nàng liên kết với người Kinh, thêu cờ lệnh bằng chăn dệt chỉ ngũ sắc của nàng mà đánh tan được giặc. Mường bản đang vui thắng trận thì nàng hoá thành tiên lên trời, sau khi tắm ở sông Nậm Bờ, để lại trên bờ thanh gươm nàng đã dùng diệt giặc. Từ đấy hàng năm đến ngày nàng lên trời, dân bản mường lại mở hội rước cờ nàng Han, vui chơi rồi kéo ra sông Nậm Bờ tắm.Và trên dãy núi Pu –keo vẫn còn đền thờ nàng Han ở chân rừng, gần đấy có những vũng, những ao chi chít nối tiếp nhau là vết chân voi ngựa của quân nàng Han và quân đội của người Kinh. So sánh với những chuyện nói trên, chúng ta thấy truyện Thánh Gióng thực sự là một bản anh hùng ca và là anh hùng ca của người Việt cổ. Tìm những câu văn, đoạn văn có yếu tố tự sự và miêu tả trong đoạn văn trên và cho biết tác dụng của nó? Các yếu tố tự sự, miêu tả trong chuyện chàng Trăng. Các yếu tố tự sự,miêu tả trong trong chuyện nàng Han. Truyện Thánh Gióng - Kể chuyện thụ thai, mẹ bỏ lên rừng. Chàng không nói, không cười; cưỡi ngựa đá đi giết bạo chúa rồi biến vào mặt trăng, đêm đêm soi dòng thác bạc Pông –gơ - nhi . -Nàng Han liên kết với người Kinh, thêu cờ lệnh bằng chăn dệt chỉ ngũ sắc, đánh giặc ngoại xâm. Thắng trận nàng hoá thành tiên bay lên trời trên dãy núi Pu – keo vẫn còn những vũng ao chi chít – những vết chân voi của nàng Han và người Kinh. Hoàn toàn không kể, tả. Từ việc tìm hiểu trên, hãy cho biết : Khi đưa các yếu tố tự sự và miêu tả vào bài văn nghị luận, cần chú ý những gì? Các yếu tố tự sự và miêu tả được dùng làm luận cứ phải phục vụ cho việc làm rõ luận điểm và không phá vỡ mạch lạc của bài văn. Ghi nhớ Bài văn nghị luận thường vẫn cần phải có các yếu tố tự sự và miêu tả. Hai yếu tố này giúp cho việc trình bày luận cứ trong bài văn được rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn, và do đó, có sức thuyết phục mạnh mẽ hơn. Các yếu tố tự sự và miêu tả được dùng làm luận cứ phải phục vụ cho việc làm rõ luận điểm và không phá vỡ mạch lạc của bài văn. II.Luyện tập Bài tập 1: Chỉ ra các yếu tố tự sự và miêu tả trong đoạn văn nghị luận dưới đây và cho biết tác dụng của chúng. Sắp Trung thu. Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Đêm trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ. Mười mấy ngày qua, trừ cái bực mình ban đầu khi bị bắt giữ vô cớ, cái khẳng định mình vẫn là khách tự do, chỉ là một xâu những sự vật lỉnh kỉnh, lích kích đáng lạ, đáng cười, đáng ghét của bộ mặt nhà giam. Bỗng đêm nay trăng sáng quá chừng. Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ lồng trong bóng cây..Đêm nay rất đẹp. Trong lòng rạo rực bao nỗi niềm. Cầm lòng không đậu, người tù phải thốt lên: “Đối thử lương tiêu nại nhược hà” (Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ) [...] Vậy trước cảnh đẹp đêm nay, trước cái đẹp đêm lành này ( đối thử lương tiêu ), biết làm sao bây giờ ( nại nhược hà)? Một câu hỏi hay một câu than đều có nghĩa. Nó là dấu hiệu của một tâm trạng dạt dào nên sinh băn khoăn. Hơn nữa, bối rối, xao xuyến. Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức, muốn chan hoà, muốn giãi bày, bộc lộ. Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải làm thơ. Tâm trạng người tù như vậy nhưng người tù đành như phải làm lơ. Như đành để mặc cho đêm đẹp đêm lành, cho trăng mời trăng giục. Nghĩa là bao nhiêu dạt dào trước trăng trước đêm, trước cái đẹp cái lành, phải ẩn vào bên trong, vùi vào im lặng. (Lê Trí Viễn, một số bài giảng thơ văn Chủ tịch Hồ Chí Minh) Yếu tố tự sự Sắp Trung thu Đêm trước rằm đầu tiên từ ngày bị giam giữ. Mười mấy ngày qua, trừ cái bực mình ban đầu khi bị bắt giữ vô cớ, chỉ là một xâu những sự vật lỉnh kỉnh, lích kích đáng lạ, đáng cười, đáng ghét của bộ mặt nhà giam. Phải đi ra với đêm, phải tắm mình trong nguyệt, phải vui, phải làm thơ. Tâm trạng người tù như vậy nhưng người tù đành như phải làm lơ. Như đành để cho đêm đẹp đêm lành, cho trăng mời trăng giục. Yếu tố miêu tả Trời xứ Bắc hẳn trong, trăng hẳn tròn và sáng. Bỗng đêm nay trăng sáng quá chừng. Trong suốt, bao la, huyền ảo, vỗ về. Ngay bên cửa sổ lồng trong bóng cây... ..Đêm nay rất đẹp. Trong lòng rạo rực bao nỗi niềm. Cầm lòng không đậu, người tù phải thốt lên... Nó ăm ắp tình tứ, nó rạo rực, nó muốn yêu, muốn thưởng thức, muốn chan hoà, muốn giãi bày, bộc lộ. Đọc đoạn văn : Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương : ở vào nơi trung tâm trời đất được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc tây đông; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng . Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi.Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi nàylà thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của các đế vương muôn đời. (Lí Công Uẩn, Chiếu dời đô ) Câu1: Trong đoạn văn trên tác giả sử dụng phương thức biểu đạt nào để làm rõ luận điểm? A. Miêu tả. B. Biểu cảm. C. Tự sự. D. Lập luận. Đáp án: A. Miêu tả Câu 2: Tác dụng của việc miêu tả những thuận lợi của thành Đại La ? A Giúp người đọc hình dung được những vẻ đẹp cụ thể của thành Đại La. B. Thuyết phục người đọc bằng cách giúp họ hình dung chi tiết những thuận lợi nhiều mặt của thành Đại La. C. Giúp cho đoạn văn thêm dễ hiểu, do đó thu hút người đọc. D. Giúp cho việc trình bày luận điểm của tác giả chặt chẽ và lô -gic hơn. Đáp án: B
File đính kèm:
- Tim hieu yeu to mieu ta va tu su trong van nghi luan.ppt