•Tác giả
Nam Cao tên là Trần Hữu Trí (1915-1951), quê ở Đại Hoàng, Lý Nhân, Hà Nam. Sở trường về truyện ngắn. Để lại trên 60 truyện ngắn và tiểu thuyết “Sống mòn”.
•Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học hiện thực 1930-1945. Viết rất hay ở 2 đề tài chính: cuộc sống người trí thức nghèo (Đời thừa, Trăng sáng, Mua nhà ) và cuộc sống người nông dân khốn cùng trong xã hội cũ (Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, Một đám cưới )
•Sau cách mạng có “Nhật ký ở rừng” (1948), “Chuyện biên giới” (1950), tiêu biểu nhất là truyện ngắn “Đôi mắt” (1948).
•Truyện của Nam Cao thấm đượm một ý vị triết lý trữ tình, chứa chan tinh thần nhân đạo. Có tài kể chuyện, giỏi phân tích tâm lí nhân vật, ngôn ngữ rất gần với lời ăn tiếng nói quần chúng, Nam Cao là gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại
11 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 335 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng Ngữ văn 12: Đôi mắt (Nam Cao ), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NguyÔn M¹nh Qu©n – Thpt BC TrÇn Quèc TuÊnTác giảNam Cao tên là Trần Hữu Trí (1915-1951), quê ở Đại Hoàng, Lý Nhân, Hà Nam. Sở trường về truyện ngắn. Để lại trên 60 truyện ngắn và tiểu thuyết “Sống mòn”.Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học hiện thực 1930-1945. Viết rất hay ở 2 đề tài chính: cuộc sống người trí thức nghèo (Đời thừa, Trăng sáng, Mua nhà) và cuộc sống người nông dân khốn cùng trong xã hội cũ (Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, Một đám cưới)Sau cách mạng có “Nhật ký ở rừng” (1948), “Chuyện biên giới” (1950), tiêu biểu nhất là truyện ngắn “Đôi mắt” (1948).Truyện của Nam Cao thấm đượm một ý vị triết lý trữ tình, chứa chan tinh thần nhân đạo. Có tài kể chuyện, giỏi phân tích tâm lí nhân vật, ngôn ngữ rất gần với lời ăn tiếng nói quần chúng, Nam Cao là gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đạiTóm tắt truyện Độ và Hoàng là đôi bạn văn chương ở Hà Nội trước Cách mạng. Kháng chiến bùng nổ, Độ trở thành một cán bộ tuyên truyền nhãi nhép. Còn Hoàng đưa vợ con đi tản cư về một nhờ 3 gian nhà gạch sạch sẽ. Vẫn nuôi chó béc giê. Độ đi bộ hàng chục cây số đến thăm Hoàng. Vợ chồng Hoàng đón tiếp Độ thân tình, cởi mở. Hai vợ chồng anh thi nhau kể xấu người nhà quê đủ thứ: ngu độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện cả hay hỏi giấy tờ. Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên. Hoàng kể cho Độ nghe chuyện anh thanh niên vác bó tre làm công tác phá hoại cản cơ giới địch, đọc thuộc lòng bài “ba giai đoạn” dài đến năm trang giấy. Chuyện một ông chủ tịch khu phố xuất thân bán cháo lòng, một ông chủ tịch “làng này” cho rằng phụ nữ thì phải “thị này thị nọ”. Người ta mời Hoàng dạy Bình dân học vụ hay làm tuyên truyền, nhưng anh không thể nào công tác với họ được, thà bị họ gọi là phản động. Vợ chồng anh đóng cổng suốt ngày, chỉ giao du với đám làng cách xa Hà Nội hàng trăm cây số. Vợ chồng anh được người quen cho ở cặn bã của giới thượng lưu trí thức cùng tản cư về. Hoàng tâm sự với Độ là anh bí lắm nhưng chưa nản vì còn tin vào ông Cụ: “Dù dân mình có tồi đi nữa, ông Cụ xoay quanh rồi cũng cứ độc lập như thường”. Buổi tối hôm ấy, nằm trong màn tuyn trắng muốt, chủ và khách nghe chị Hoàng đọc Tam Quốc. Tiếng chị Hoàng thanh thanh. Hoàng hỏi Độ là Tào Tháo có giỏi không? Mỗi lần đến đoạn hay, Hoàng vỗ đùi kêu: “Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào Tháo!”Chủ đề Phê phán cách nhìn đời, nhìn người lệch lạc, khinh miệt, lối sống ích kỷ và bàng quan của một trí thức đối với kháng chiến, đồng thời biểu dương một lớp trí thức, văn nghệ sĩ có một cái tâm đẹp, gắn bó với nhân dân, tích cực tham gia sự nghiệp cách mạng của dân tộc. “Đôi mắt” thể hiện cách nhìn và thái độ của người trí thức đối với nông dân và kháng chiến. Vấn đề “đôi mắt” của Hoàng và Độ Vấn đề “đôi mắt” là thái độ, là cách nhìn người, nhìn đời, là cách ứng xử với thời cuộc, với cuộc kháng chiến của dân tộc. Cũng là nhà văn nhưng Hoàng và Độ sống rất khác nhau “đôi mắt” của họ không giống nhau ở cách nhìn đời, nhìn người và cách sống Nhân vật Hoàng - Thuộc lớp đàn anh trong văn giới. Thời Nhật Tây lộn xộn, anh ta là “một tay chợ đen rất tài tình”. Tính nết thất thường, hay đố kỵ và “đá” bạn. - Tản cư về nông thôn nhưng khinh bỉ nông dân, kể xấu họ đủ điều, “mũi nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối”. - Bàng quan trước thời cuộc. Không tham gia bất cứ một công việc gì của kháng chiến. Đóng cổng suốt ngày. Vẫn giữ một lối sống sang trọng không hợp lí: nuôi chó bẹc giê, màn tuyn, hút thuốc lá thơm, đọc Tam quốc mỗi tối trước khi đi ngủ. - Tin lãnh tụ mà coi thường vai trò và sự nghiệp cách mạng của nhân dân. Vẫn là một cách nhìn lệch lạc.Tóm lại, Hoàng là một văn sĩ lạc hậu, kém nhân cách, lệch lạc trong nhìn người và nhìn đời, vô trách nhiệm đối với sự nghiệp kháng chiến của dân tộc. Với Hoàng “vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, chỉ càng thêm chua chát và chán nản”.Nhân vật Độ Anh tự nhận là “một kẻ non dại, mới tập tọng học nghề” trong văn giới.Hăm hở dấn thân: theo nông dân “đi đánh phủ” cướp chính quyền, làm phóng viên mặt trận, làm anh tuyên truyền nhái nhép - Sống giản dị, gần gũi quần chúng - Có một tấm lòng nhân hậu, một cái tâm đẹp, nhìn quần chúng, phát hiện ở họ những phẩm chất tốt đẹp: yêu nước, dũng cảm, nhiệt tình tham gia kháng chiến, v.v Độ là một nhà văn, một trí thức tiến bộ. Giàu nhân cách. Tích cực tham gia kháng chiến. Khẳng định một tam thế: “Sống đã rồi hãy viết” và Độ đã hăng hái tham gia và phục vụ kháng chiến.Kết luậnVới nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, cách xây dựng nhân vật tương phản đối lập, bằng những chi tiết cụ thể, cá thể hóa, Nam Cao đã ghi nhận một thành công đầu tiên của văn xuôi kháng chiến, làm cho truyện “Đôi mắt” trở thành một tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ nhà văn sau Cách mạng buổi nhận đường” KÕt Thóc
File đính kèm:
- Doi mat Nam Cao.ppt