Bài giảng môn Ngữ văn khối 11 - Một thời đại trong thi ca (trích thi nhân Việt Nam)

1/Tác giả:

- Hoài Thanh (1909-1982), Tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên

- Quê: Nghệ An, xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo.

- Tham gia các phong trào yêu nước ngay từ thời đi học.

=> Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 2000 được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

 

ppt15 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài giảng môn Ngữ văn khối 11 - Một thời đại trong thi ca (trích thi nhân Việt Nam), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA (Trích Thi nhân Việt Nam) Hoài ThanhI. TÌM HIỂU CHUNG:1/Tác giả: - Hoài Thanh (1909-1982), Tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên- Quê: Nghệ An, xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo.- Tham gia các phong trào yêu nước ngay từ thời đi học.=> Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 2000 được tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.2/ Tác phẩm:Các tác phẩm chính:* Trước cách mạng:. Cuốn Văn chương và hành động (1936).. Cuốn Thi nhân Việt Nam (Năm 1941 - 1944): *Sau cách mạng: -Có một nền văn hóa VN (1946) -Quyền sống của con người trong Truyện -Kiều của Nguyễn Du (1949) -Nói chuyện thơ kháng chiến (1951) -Tuyển tập Hoài Thanh (Tập I - 1982; Tập II - 1983). => Hoài Thanh có biệt tài trong thẩm thơ, ông “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế, tài hoa và luôn thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh!2. Văn bản:-Đoạn trích thuộc phần đầu của quyển “Thi nhân Việt Nam”, là phần cuối của tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”-Văn bản nghị luận về một vấn đề văn học.- Bố cục 3 phần: + Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới. + Tinh thần thơ mới: chữ tôi + Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó. II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN: 1. Nguyên tắc xác định tinh thần thơ mới.* Khó khăn : - Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra.Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở.=> Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.SO SÁNH: Người giai nhân: bến đợi dưới cây già Tình du khách: Thuyền qua không buộc chặt.Thơ mới: hình ảnh ước lệ cổ điển. Ô hay cảnh cũng ưa người nhỉ Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ=> Thơ cũ: giọng trẻ trung!* Nguyên tắc (phương pháp) : + Sánh bài hay với bài hay, không căn cứ vào bài dở. (Phương pháp so sánh).+ Nhìn vào đại thể, không nhìn vào cục bộ. (Cái nhìn biện chứng, nhiều chiều, không phiến diện).2. Tinh thần thơ mới:Tinh thần thơ mới : Chữ tôi. Chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó.Cách hiểu về chữ tôi : So sánh : + Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc.+ Thơ mới là tiếng nói của cái Tôi với nghĩa tuyệt đối của cái riêng, cái cá nhân, cá thể. => Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều. 3. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.Ngày thứ nhất : Nó thực bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất khách => Bị khó chịu, ác cảm.Ngày một ngày hai : Nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta còn thấy nó đáng thương. => Được quen dần và thương cảm.=> Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để xem xét. Giọng điệu giàu cảm xúc. Thương cảmNgày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu noĐêm năm canh an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ Nỗi đời cay cực đang giơ vuốtCơm áo không đùa với khách thơCười trước cảnh nghèoKhóc than trước cảnh nghèoCái Tôi thơ mới yếu đuối, khổ sở, thảm hạiSO SÁNH: ĐẶC ĐIỂM CÁI TÔI THƠ MỚINGUYỄN CÔNG TRỨXUÂN DIỆU:TaPhiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng LưĐắm say cùng Xuân DiệuĐiên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan ViênĐộng tiên đã khépTaNgơ ngẩn cùng Huy CậnBơ vơRồi tỉnhTho¸t lªn tiªn cïng ThÕ LữTình yêu không bền* Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp vì : + Mất cốt cách hiên ngang : không có khí phách ngang tàng như Lí Bạch, không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.+ Rên rỉ, khổ sở, thảm hại.+ Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch.Cách trình bày có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn), lập luận logic, chặt chẽ; mà cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng. * Bi kịch của người thanh niên thời ấy : Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc. (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới). Cái tôi bi kịch này “đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại” nên nó vừa có ý nghĩa văn chương vừa có ý nghĩa xã hội.* Giải quyết bi kịch : + Gửi cả vào tiếng Việt.+ Bởi vì : họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt ; vì tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua ; vì họ muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng; vì họ tin rằng tiếng ta còn, nước ta còn; vì họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt=> Giọng văn giàu cảm xúc của người trong cuộc giãi bày, đồng cảm, chia sẻ; với những câu văn mềm mại uyển chuyển. * Nhận xét : Các nhà thơ mới, thế hệ thanh niên thời ấy đã thể hiện tình yêu quê hương đất nước thầm kín. Tất cả tình yêu thương ấy được họ dồn cả vào tình yêu tiếng Việt. III. Ghi nhớ: sgk

File đính kèm:

  • pptMOT THOI DAI TRONG THI CA HOAI THANH.ppt