LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIÁO DỤC HỌC
1. Giáo dục học là một khoa học
1.1. Giáo dục học là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.1.1. Hiện tượng giáo dục
Con người sinh đẻ, trưởng thành đều diễn ra trong xã hội, thực hiện các mối quan hệ xã hội nhất định.
Con người muốn tồn tại, phát triển không những chỉ tham gia vào các quan hệ xã hội mà còn tham gia vào lao động để tạo ra nguồn sống và của cải thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động để chinh phục thiên nhiên.
Từ đó làm nảy sinh nhu cầu:
- Truyền đạt.
- Tiếp thu.
Kinh nghiệm giữa các thế hệ để tồn tại - phát triển. Đây chính là nguồn gốc phát sinh hiện tượng giáo dục.
46 trang |
Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 670 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Giáo dục học, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý luận chung về giáo dục học
1. Giáo dục học là một khoa học
1.1. Giáo dục học là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.1.1. Hiện tượng giáo dục
Con người sinh đẻ, trưởng thành đều diễn ra trong xã hội, thực hiện các mối quan hệ xã hội nhất định.
Con người muốn tồn tại, phát triển không những chỉ tham gia vào các quan hệ xã hội mà còn tham gia vào lao động để tạo ra nguồn sống và của cải thế giới xung quanh, dần dần tích luỹ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động để chinh phục thiên nhiên.
Từ đó làm nảy sinh nhu cầu:
- Truyền đạt.
- Tiếp thu.
Kinh nghiệm giữa các thế hệ để tồn tại - phát triển. Đây chính là nguồn gốc phát sinh hiện tượng giáo dục.
Giáo dục được hiểu là hiện tượng đặc biệt vì nó chỉ có trong xã hội loài người, là một hình thái ý thức xã hội, là hiện tượng văn minh của nhân loại.
1.1.2. Chức năng của giáo dục
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội và được tổ chức đặc biệt cho thầy, giáo dục có 2 chức năng quan trọng:
- Chức năng văn hoá xã hội.
- Chức năng kinh tế.
a. Chức năng văn hoá - xã hội:
- Nâng cao dân trí: giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội, qua đó người học tích luỹ mở mang trí tuệ, hình thành văn hoá đạo đức, họ là người bảo tồn và phát triển nền văn minh của dân tộc và thế giới. Có nhiều con đường thực hiện giáo dục, trong đó con đường hữu hiệu nhất là tổ chức đào tạo. Một quốc gia có trình độ dân trí cao biểu hiện:
- Đời sống tinh thần và vật chất đạt trình độ hiện đại, trong đó mọi người có đời sống chính trị, văn hoá, đạo đức có ý thức xã hội, có hành vi cá nhân đảm bảo tốt các mối quan hệ xã hội đối với tổ quốc và cả cuộc sống lao động, sinh hoạt đời thường của mỗi cá nhân.
b. Chức năng kinh tế:
- Đào tạo nhân lực: đất nước muốn phát triển phải có đủ nhân lực và nhân lực phải phát triển với trình độ kỹ thuật cao đảm bảo cho xã hội vận động đúng quy luật.
- Bồi dưỡng nhân tài: trong xã hội hội hiện đại, khi nền khoa học và công nghệ những thành tựu của thế giới đạt đến trình độ phát triển cao, nhu cầu đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao, tay nghề vững, đặc biệt phải có tính năng động, sáng tạo, có khả năng linh hoạt để giải quyết mọi vấn đề của thực tiễn.
Như vậy, rõ ràng là giáo dục đào tạo tham gia, góp phần có tính quyết định vào việc đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài là thúc đẩy nền kinh tế xã hội. Đó là chức năng kinh tế của giáo dục. Giáo dục được nhận thức như là một đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế, xã hội.
1.1.3. Tính chất của giáo dục
a. Tính phổ biến và vĩnh hằng: Điều này nói lên rằng ở đâu có con người thì ở đó có giáo dục, nó diễn ra trong toàn bộ cuộc đời của mỗi con người. Giáo dục phát triển gắn bó cùng với loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng với sự tồn tại của xã hội loài người.
b. Tính lịch sử: ở mỗi giai đoạn phát triển của xã hội loài người giáo dục cũng chịu sự quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ phát triển của mỗi giai đoạn trên tiến trình vươn tới đỉnh cao, mặt khác nó cũng tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử.
c. Tính giai cấp: Sự phân chia xã hội thành giai cấp đã làm cho xã hội mang tính giai cấp. Giáo dục được sử dụng như một công cụ của giai cấp cầm quyền để duy trì bảo vệ quyền lợi của mình thông qua mục đích - nội dung - phương pháp giáo dục.
d. Tính dân tộc: Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có một truyền thống lịch sử, có nền văn hoá riêng. Giáo dục ở mỗi nước phản ánh trình độ phát triển của lịch sử nước đó và có những nét độc đáo bản sắc riêng thể hiện trong N - P và trong sản phẩm giáo dục của mình.
1.2. Đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp của giáo dục học nghề nghiệp
1.2.1. Đối tượng nghiên cứu của GDH và GDHNN
Mỗi một khoa học đều có:
- Đối tượng nghiên cứu.
- Hệ thống khái niệm.
- Phạm trù và phương pháp nghiên cứu.
Giáo dục học là một khoa học có đối tượng nghiên cứu là quá trình giáo dục với tư cách là một quá trình xã hội hình thành và phát triển nhân cách con người, tổ chức chỉ đạo một cách có ý thức và mục đích.
Cụ thể là nghiên cứu để xác định bản chất quy luật giáo dục các mối quan hệ có tính quy luật trong quá trình giáo dục. Xác định những con đường phù hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước và phát triển nhân cách con người được đào tạo.
Trong bốn thập kỷ vừa qua ở nhiều nước đã xuất hiện cơ sở khoa học và giáo dục học nghề nghiệp, đã xuất bản nhiều tài liệu và giáo dục học nghề nghiệp, như vậy giáo dục học nghề nghiệp đã phát triển thành một khoa học độc lập và nghiên cứu, phát hiện các mối quan hệ có tính quy luật (các quy luật riêng) là xuất hiện đặc trưng riêng, có khách thể nghiên cứu của nó là phạm vi xã hội "giáo dục nghề nghiệp". Giáo dục học nghề nghiệp đã thừa hưởng những tư tưởng và kinh nghiệm của giáo dục mói chung và bộ phận nói riêng này và quan hệ giữa chúng như các đặc thù, cái riêng với cái chung.
Quá trình giáo dục
Giáo dục học nghề nghiệp Quá trình lao động
(Nghề)
Thuật ngữ "Giáo dục nghề nghiệp" nghĩa rộng: bao hàm mọi bậc đạo tạo;
nghĩa hẹp: chỉ đào tạo nghề
Tóm lại, giáo dục học nghề nghiệp có đối tượng nghiên cứu là quá trình giáo dục đào tạo nghề nghiệp, nghiên cứu các quy luật, các mối quan hệ trong quá trình này từ việc xác định:
M - N - P - PT - TC - ĐK - HĐ - KQ.
1.2.2. Nhiệm vụ của giáo dục học nghề nghiệp
Nhiệm vụ: nghiên cứu các quy luật của quá trình giáo dục nghề nghiệp và sự xâm nhập giữa giáo dục học nghề nghiệp với các khoa học khác. Từ đó đưa ra các hướng dẫn có cơ sở khoa học để cải biến thực tiễn xã hội.
Cụ thể giáo dục học nghề nghiệp thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Phân tích thực tế giáo dục nghề nghiệp, phát triển mâu thuẫn của nó để tìm ra các mối quan hệ bản chất và có tính quy luật của quá trình giáo dục học nghề nghiệp với mục đích xây dựng nên một "Mô hình lý thuyết" giúp ích cho nghiên cứu và giảng dạy, cải biến thực tiễn về giáo dục - đào tạo trong giáo dục học nghề nghiệp hiện nay.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa M - N - P - PT - TC - HĐ từ đó vạch ra con đường thực hiện mục đích giáo dục, đưa ra các định hướng, hướng dẫn có cơ sở khoa học để tổ chức quá trình giáo dục học nghề nghiệp:
Ví dụ như việc xác định mục đích, nội dung dạy học và những nhiệm vụ cụ thể...(cả tầm vĩ mô và vi mô).
- Nghiên cứu hoạt động của giáo dục nghề nghiệp bao gồm hoạt động của giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo, đồng thời nghiên cứu cả người được giáo dục, nghiên cứu những đặc điểm yêu cầu của nhà giáo dục và người được giáo dục, mối quan hệ giữa người được giáo dục và người giáo dục: Hoạt động của các cơ sở đào tạo, qua đó đưa ra chỉ dẫn cụ thể cho các hoạt động giáo dục đào tạo ở phạm vi trường.
1.2.3. Hệ thống khoa học giáo dục nghề nghiệp và mối liên hệ với các khoa học khác
a. Hệ thống khoa học giáo dục nghề nghiệp:
Căn cứ vào cấu trúc năng lực chuyên môn và phẩm chất cũng như mặt nghiệp vụ sư phạm của người đào tạo về phương diện sư phạm cần thiết và đưa vào đào tạo cho họ các môn học sau đây:
- Lý luận chung của giáo dục học nghề nghiệp (Đại cương)
Đối tượng của môn học này là nghiên cứu bản chất, các quy luật cơ bản của quy luật giáo dục, cụ thể là cơ sở của mục đích và chính sách giáo dục học nghề nghiệp.
- Lý luận giáo dục: Nghiên cứu bản chất các quy luật giáo dục của quá trình giáo dục, nội dung, nguyên tắc, phương pháp hình thức và cách đánh giá kết quả về mặt giáo dục phẩm chất nhân cách người được đào tạo.
- Lý luận dạy học: Nghiên cứu bản chất và các quy luật của quá trình dạy học thiết kế nội dung chương trình đào tạo nghề, các nguyên tắc phương pháp, phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học và việc đánh giá kết quả học tập của người học.
- Lý luận quản lý giáo dục đào tạo nghề nghiệp: Nghiên cứu các vấn đề về tổ chức và quản lý hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở các bậc đào tạo khác nhau, trong đó cốt lõi là các vấn đề quản lý nội bộ nhà trường, đặc biệt là quá trình sư phạm trong nhà trường.
- Phương pháp giảng dạy môn học: Con đường tích hợp các modul kiến thức đã dẫn đến sự hình thành một loại môn học mới này. Hiện nay còn nhiều khó khăn trong việc biên soạn phương pháp dạy cho từng môn trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp bởi tính đa dạng của nó. Để từng bước tiến tới việc biên soạn phương pháp dạy cho từng môn học, ngày nay mới chỉ bắt đầu việc biên soạn ra tài liệu "Lý luận phương pháp giảng dạy môn học" nhằm giúp giáo viên kỹ thuật dựa trên cơ sở đó xây dựng nên những phương pháp dạy học cho môn học của mình đang trực tiếp giảng dạy tại các cơ sở đào tạo nghề nghiệp.
Sắp tới còn có thể phải biên chế thêm những môn học khác như so sánh giáo dục học nghề nghiệp, nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp.
b. Mối liên hệ giáo dục học nghề nghiệp với các khoa học khác
- Với triết học Mác - Lênin: Giáo dục lấy triết học Mác - Lênin làm cơ sở cho phương pháp lý luận của mình (Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử) như bản chất của con người, phát triển nhân cách, lý luận nhận thức...ngành của triết học Mác - Lênin như: xã hội học, đạo đức học, mỹ học... đều có vai trò to lớn trong việc nghiên cứu giáo dục học nghề nghiệp.
- Với sinh lý học: Được coi như là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học (hoạt động thần kinh cao cấp, cơ chế hình thành động hình về sự tác động lẫn nhau giữa các hệ thống tín hiệu).
- Với tâm lý học: Giáo dục dựa trên các thành quả hoạt động tâm lý ở các lứa tuổi khác nhau và sự biến đổi các hoạt động đó dưới tác động của giáo dục đào tạo về các quy luật hình thành kỹ năng, kỹ xảo lao động.
- Với các khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật cùng với sự tiến bộ của nó có ý nghĩa quan trọng và tác động mạnh mẽ tới việc xây dựng mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, điều kiện của quá trình giáo dục nghề nghiệp.
Phương pháp nghiên cứu trong giáo dục là cách thức, con đường mà nhà khoa học áp dụng để khám phá bản chất và quy luật của quá trình giáo dục vận dụng chúng cải tạo quá trình giáo dục - đào tạo.
Các phương pháp được chia thành 3 nhóm sau đây:
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
+ Phương pháp thu nhập thông tin lý luận từ các nguồn tài liệu: văn kiện, các chuyên khảo, các tạp chí khoa học... đem phân tích, tổng hợp, phân loại, đánh giá, trừu tượng hoá, hệ thống hoá để tạo ra lý thuyết mới phục vụ cho giáo dục và đào tạo.
+ Phương pháp nghiên cứu những sự kiện phức tạp thực hiện bằng con đường đề xuất và chứng minh giả thuyết đề đề xuất hay thành lập quan niệm, thuyết mới.
+ Phương pháp nghiên cứu những hiện tượng giáo dục phức tạp trong thực tế giáo dục để xây dựng nên mô hình chứa đựng bản chất và quy luật của các hiện tượng giáo dục (Mô hình giả định).
* Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Quan sát thực tiễn: Trực tiếp xem xét các hiện tượng giáo dục theo một chương trình chủ động nhằm phát hiện những biến đổi, phát triển của những điều kiện cụ thể, từ đó tìm ra quy luật vận động của đối tượng.
+ Điều tra toàn diện và có hệ thống các đối tượng giáo dục trên một diện để xác định và quy luật phát triển của chúng.
+ Nghiên cứu các sản phẩm hoạt động của thầy trò để phát hiện trình độ nhận thức, phương pháp, chất lượng hoạt động của họ nhằm tìm giải pháp nâng cao chất lượng quá trình giáo dục.
+ Thực hiện giáo dục.
+ Phân tích và tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
+ Phương pháp chuyên gia: Để đánh giá sản phẩm giáo dục tìm ra bản chất, đưa ra giải pháp tối ưu cho sự kiện giáo dục nào đó.
* Nhóm phương pháp toán học
Phương pháp toán học cũng được sử dụng rộng rãi với hai mục đích:
+ Sử dụng lý thuyết toán học, phương pháp logic toán học để xây dựng các lý thuyết giáo dục nhằm đảm bảo quá trình suy diễn triệt để nhất quán.
+ Dùng toán học thống kê để xử lý các tài liệu thu nhập từ các phương pháp khác nhau để cho ra những số liệu khái quát chính xác, tin cậy về đối tượng nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu được lựa chọn và sử dụng tuỳ theo mục đích, nội dung và đặc điểm của từng đối tượng. Trong một đề tài được nghiên cứu người ta thường sử dụng nhiều phương pháp mang tính tích hợp để đạt được mục tiêu nghiên cứu nguồn tài liệu đọc thêm.
Câu hỏi ôn tập bài 1
1. Hiện tượng giáo dục là gì? Cho ví dụ trong thực tế.
2. Hãy nêu nội dung các chức năng của giáo dục.
3. Giáo dục có mấy tính chất? Nêu nội dung của nó.
4. Giáo dục nghiên cứu gì? Nhiệm vụ của giáo dục học.
5. Trong nghiên cứu giáo dục học nghề nghiệp có những nhóm phương pháp gì?
2. Những khái niệm và phạm trù cơ bản của giáo dục học và giáo dục học nghề nghiệp
2.1. Giáo dục
* Về bản chất: Giáo dục là quá trình truyền đạt và tiếp thu kiến thức kinh nghiệm của lịch sử xã hội qua các thế hệ loài người.
* Về hoạt động: Giáo dục là một quá trình tác động của xã hội và nhà giáo dục đến các đối tượng giáo dục để hình thành nhân cách cho họ.
* Về mặt phạm vi: Khái niệm bao hàm nhiều cấp độ khác nhau:
- Quá trình xã hội hoá con người: Quá trình hình thành nhân cách dưới ảnh hưởng của tác động chủ quan, có ý thức và không có ý thức trong mối quan hệ xã hội.
- Giáo dục xã hội: Đó là tác động của xã hội tới lực lượng xã hội tới người được giáo dục để hình thành nhân cách cho con người.
- Quá trình sư phạm: ở cấp độ này giáo dục bao gồm quá trình dạy và học và quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp.
+ Giáo dục theo nghĩa hẹp: Bao gồm những sự tác động của nhà giáo dục lên nhân cách con người được giáo dục nhằm hình thành phẩm chất đạo đức theo tiêu chuẩn nhất định.
+ Giáo dục theo nghĩa rộng: Là quá trình có mục đích, có tổ chức và có hệ thống nhằm hình thành nhân cách, nó bao gồm toàn bộ quá trình giáo dục với tất cả các mặt tổ chức và tác động của nó.
2.2. Tự giáo dục
Tự giáo dục trước hết là sự cố gắng và sẵn sàng thực hiện mục đích giáo dục, tự giác tiếp thu sự giáo dục đào tạo và các tiêu chuẩn đạo đức...nhằm có được các thước đo cho sự nhận xét, đánh giá và cuối cùng là sự sẵn sàng tự phê bình.
2.3. Giáo dưỡng
Khái niệm giáo dưỡng dùng để chỉ phạm trù tác động giáo dục.
Giáo dưỡng được hiểu như là quá trình truyền thụ và lĩnh hội một hệ thống tri thức nhất định đã được khái quát hoá trong các ngành khoa học tự nhiên xã hội, các khoa học kỹ thuật và tư duy con người, các kỹ năng kỹ xảo và năng lực nhận thức để hình thành nhân cách nghề nghiệp. Quá trình này được thực hiện chủ yếu thông qua việc dạy học.
2.4. Dạy học
Được hiểu là hoạt động có tổ chức bao gồm hai hoạt động dạy và học. Hai hoạt động này diễn ra trong mối quan hệ qua lại lẫn nhau trong một quá trình thống nhất. Dưới sự tổ chức của thầy trò hoạt động tích cực tiếp thu kiến thức, kỹ năng, thái độ phát triển trí tuệ.
Các khái niệm cơ bản của giáo dục và giáo dục nghề nghiệp thường xuyên thay đổi và phát triển, vì vậy phải tiếp thu hoàn thiện.
3. Giáo dục trên bước đường đổi mới
Sau khi có nghị quyết HNTW 4 (khoá 7) và nghị quyết HNTW 2 (khoá 8) ngành giáo dục đã nhanh chóng triển khai các nghị quyết này thông qua đổi mới cách nghĩ và cách làm giáo dục. Giáo dục đào tạo phải tiến hành đổi mới trước hết là MTĐT và mặt xã hội cũng như nhân cách người được đào tạo, đổi mới cấu trúc hệ thống và cơ chế vận hành thích hợp, cải tiến tổ chức quá trình sư phạm để nâng cao chất lượng hiệu quả của các hoạt động sư phạm, đáp ứng những nhu cầu của kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Dựa trên quan điểm coi giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, mục tiêu chiến lược phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo đến năm 2000 là xây dựng một nền giáo dục đào tạo với những đặc trưng sau:
- Nền giáo dục vì dân trí: Có chất lượng về văn hoá, đạo đức và chuyên môn với mức phổ cập tiểu học trong cả nước, phổ cập trung học cơ sở cho những vùng dân cư có kinh tế và giao lưu khó khăn, phổ cập phổ thông trung học tại các vùng kinh tế phát triển, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu cho mọi người có nguyện vọng theo học các cấp bậc và ngành học.
- Nền giáo dục vì nhân lực: Đảm bảo đủ chất lượng số lượng nhân lực cho nền công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong cả nước và từng vùng lãnh thổ, đồng thời tạo cơ hội và việc làm nghề nghiệp tiến thân cho mọi người trong xã hội.
- Nền giáo dục vì nhân tài: Tạo nên những tài năng về khoa học công nghệ, văn hoá, nghệ thuật quản lý kinh tế xã hội, có khả năng đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển của đất nước.
- Nền giáo dục có sức thu hút nguồn đầu tư của nhà nước và xã hội. Nền giáo dục hiện nay và trong tương lai phải đảm bảo được những nhiệm vụ quan trọng và những thách thức mới để đáp ứng những lợi ích chung của quốc gia, tạo ra được lực lượng lao động chất lượng cao, muốn đạt được việc đó riêng nguồn đầu tư của nhà nước không thể đáp ứng đầy đủ mà cần huy động mọi đầu tư khác để làm cho nguồn tài chính đủ mạnh cho giáo dục đào tạo.
- Nền giáo dục liên thông rộng rãi với thế giới: Tạo khả năng tiếp nhận và chọn lọc để vận dụng vào nước ta các thành tựu tiên tiến về giáo dục đào tạo của thế giới để tiến lên cùng sự tiến bộ chung về giáo dục toàn cầu.
Các mục tiêu phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo có thể được khái quát theo ba hướng cơ bản sau:
+ Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
+ Mở rộng quy mô và số lượng giáo dục đào tạo.
Và chiến lược phát triển giáo dục đào tạo cần được thực hiện qua các hướng hành động chủ yếu sau đây:
+ Xây dựng nhận thức mới về giáo dục đào tạo trong xã hội đang đổi mới.
+ Chọn lọc hình thành một bộ phận giáo dục có trình độ cao để mở đầu chuyển hóa chất lượng toàn hệ thống.
+ Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục đào tạo.
+ Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo.
+ Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý.
+ Cải tiến việc hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo.
Các định hướng nêu trên phải được thể hiện qua một kế hoạch hành động tổng thể dài hạn nhằm mục tiêu chung, nhằm đưa hệ thống giáo dục - đào tạo nước ta lên một trạng thái mới phù hợp với yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội cũng như hoà nhập vào xu thế hiện đại của thế giới về giáo dục đầu thế kỷ 21.
Câu hỏi ôn tập
1. Hãy nêu nội dung của các khái niệm: giáo dưỡng, giáo dục, tự giáo dục và dạy học.
2. Nêu những đặc điểm cơ bản của chiến lược giáo dục Việt Nam?
Giáo dục và sự phát triển nhân cách
Trong xã hội hiện đại, sự phát triển của tuổi trẻ, của học sinh không thể tách rời với quá trình giáo dục. Đồng thời quá trình giáo dục có hiệu quả phải tác động phù hợp với quy luật phát triển của người học trong đó quan trọng nhất là phù hợp với những đặc điểm của quá trình hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các nhà giáo dục lỗi lạc như J.A.Konicxky, J.J.Rouscan, I.G. Pestalozi...đã là những người phê phán kịch liệt nền giáo dục, đồng thời chính các ông đã đòi hỏi mục tiêu giáo dục, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục phải phù hợp với đặc điểm của đối tượng giáo dục. Cũng chính từ đó khoa học giáo dục đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu những quy luật, những đặc điểm phát triển của trẻ em, của học sinh coi đó là một cơ sở quan trọng của khoa học sư phạm.
Những thành tựu ngày nay của tâm lý học nhân cách, tâm lý học lứa tuổi và sư phạm của khoa học giáo dục cũng như kinh nghiệm thực tiễn đòi hỏi quá trình giáo dục phải thống nhất biện chứng với quá trình phát triển nhân cách người học. Muốn vậy người làm công tác giáo dục cần nắm một số quan điểm cơ bản về bản chất của nhân cách và sự phát triển nhân cách con người.
1. Sự phát triển nhân cách con người
1.1. Khái niệm về con người nhân cách
Hiện nay trong dân gian cũng như trong học thuật có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau về bản chất nhân cách con người.
1.1.1. Một số quan điểm sai về bản chất con người
- Quan điểm tiền định: coi bản chất và số phận của mỗi con người đó được quy định trước khi con người đó ra đời. Nó được thể hiện với nhiều màu sắc khác nhau. Do Thượng Đế định sẵn: "Cha mẹ sinh con, trời sinh tính", "thông minh vốn sẵn tính trời", "mới hay muôn sợ tại trời", "do kiếp trước", do mả ông cha để lại được hưởng "phúc" hay chịu "hoạ".
Những quan điểm trên đây là những quan điểm khác nhau làm cho con người không tin tưởng vào chính bản thân mình và chỉ chờ mong vào trời đất quỷ thần, số phận hoặc "cũng lắm điều nhắm mắt đưa chân" nó nhủ con người không giúp ta tự tin, dũng cảm tái tạo tự nhiên, đấu tranh xã hội cải tạo chính bản thân mình.
Thuyết di truyền quyết định tất cả thực chất cũng là quan điểm tiền định.
Thuyết phân tâm học do S.Frend nêu ra từ đầu thế kỷ này, nay vẫn rất thịnh hành ở phương Tây. Có người vẫn dùng thuyết này để giải thích những hiện tượng xã hội và hành vi con người chủ yếu quy định bởi những bản năng vô thức, đặc biệt là bản năng tình dục... Thuyết này giải thích mọi hành vi của con người đều do sự thôi thúc của bản năng. Dù trong con người có ý thức về đời sống thường ngày của bản thân (cái tôi) (cái siêu tôi) nhưng tất cả những cái đó đều bất lực trước cái bản năng vô cùng sôi sục mãnh liệt (cái nó), nó thúc đẩy con người đến những đam mê vô thức, những hành động bản năng. Thực chất thuyết này chỉ đi sâu phân tích những bản năng sinh vật ở con người và khuếch đại lên, tuyệt đối hoá đi, không thấy được bản chất xã hội con người. Như vậy nó đã hạ thấp con người, bênh vực khuyến khích những hành vi phi xã hội, nó coi giáo dục chỉ thể hiện tiếp tục những cái sẵn có của bản năng và hướng cho những cái đó (thăng hoa) lên, chứ không thể hình thành, phát triển những năng lực, phẩm chất mới từ xã hội đưa lại cho con người.
Thuyết hành vi (chủ nghĩa hành vi) cũng được hình thành từ đầu thế kỷ này ở châu Âu và Mĩ. Ngày nay, thuyết này cũng đang được thịnh hành ở Mĩ và nhiều nước tư bản. ở Việt Nam từ khi Mĩ xâm lược thuyết hành vi chủ nghĩa thực dụng cũng được thâm nhập vào: thuyết này cho rằng không cần quan tâm đến bản chất xã hội, đến tâm lý, ý thức, đời sống tâm hồn của con người mà chỉ cần biết: cho một kích thích (S) phản ứng (R) như thế nào. Phản ứng nào có lợi thì tiếp tục củng cố duy trì. Những người đề ra thuyết này không những nghiên cứu thực nghiệm ở động vật (chuột, bồ câu, khỉ...) để giải thích hành vi người mà còn áp dụng kết quả nghiên cứu của công thức S - R ở động vật mang vào xã hội (huấn luyện công nhân, quân đội, giáo dục trẻ em...). Thuyết này là một trong những cơ sở cho chủ nghĩa thực dụng của Mĩ. Thực chất đó là cách triệt để khai thác khả năng lao động của người công nhân Mĩ, cũng triệt để kích thích và củng cố những hành vi chấp hành mù quáng của binh lính Mĩ... Nó nhằm sử dụng con người như những công cụ, tiếp thu những mệnh lệnh nhanh nhất, phản ứng chính xác nhất, có lợi nhất cho nhà tư sản. Còn đời sống tâm hồn của con người chỉ là cái hộp đen không cần biết đến. Cái đó chủ yếu trông vào sự chăm sóc của nhà thờ.
Ngày nay, một số học giả phương Tây đã nêu ra thuyết "Frend" mới và "chủ nghĩa hành vi mới" nhưng cũng chỉ là trình bày mềm dẻo hơn, tinh vi hơn còn bản chất cũng chưa thay đổi.
Thuyết "môi trường quyết định" cho rằng trẻ em sinh ra như một tờ "giấy trắng", mọi tác động của môi trường sẽ ghi lên tờ "giấy trắng" một cách máy móc, thuyết này có vẻ tiến bộ hơn nhưng thực chất coi con người như một thực thể thụ động, tiếp thu máy móc mọi thụ động của hoàn cảnh: như vậy là hoàn cảnh xã hội của mỗi người đã định sẵn bản chất của con người tốt hay xấu đều tại "hoàn cảnh", tại "môi trường" cả. Đúng là hoàn cảnh, môi trường rất quan trọng, nhất là đối với trẻ em nhưng môi trường chung chung không thể tự nó quyết định tất cả. Cùng một gia đình, một nhóm người nhưng người ta phát triển rất khác nhau đó thôi. Quan điểm đó rõ ràng không thấy tính biện chứng giữa hoạt động của cá nhân với tác động của hoàn cảnh, không thấy tính tích cực lựa chọn, tính năng động của con người trong việc cải tạo hoàn cảnh vượt lên trên hoàn cảnh để tự rèn luyện mình.
Chúng ta còn bắt gặp nhiều quan điểm sai lệch khác nữa, cũng có những nhược điểm như quan điểm nêu trên.
1.1.2. Quan điểm Macxit
Dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng Macxit, trên những thành quả của khoa học nghiên cứu con người, ngày nay chúng ta có thể nêu lên những quan điểm đúng đắn hơn về bản chất nhân cách của con người, nhằm hiểu con người một cách đầy đủ, đúng đắn hơn để có thể giáo dục con người một cách có cơ sở tin cậy.
Con người là một thực thể tự nhiên.
Trước hết chúng ta thấy rõ con người là một thực thể tự nhiên, có nguồn gốc phát triển lâu dài trong lịch sử tiến hoá động vật lên trong những điều kiện đặc biệt và đạt tới trình độ phát triển cao nhất trong giới tự nhiên. Con người đã trở thành "Chúa tể muôn loài" nhưng với tư cách là thực thể tự nhiên, con người đã tuân theo các quy luật sinh vật mang theo các đặc điểm di truyền về hình thái - giải phẫu - sinh lý của thế hệ trước, có đặc điểm riêng về giải phẫu sinh lý, hoạt động thần kinh, có nhu cầu sinh vật, những phản xạ, bản năng... Nhưng con người đồng thời là thực thể xã hội và đối với một người bình thường thì ngay cả những hành vi có tính sinh vật, bản năng cũng được ý thức, cũng có tính xã hội, bị quy định bởi "cái xã hội".
Con người là một thực thể xã hội
Quan điểm Macxit nhấn mạnh rằng bản chất tự nhiên của con người chỉ tồn tại với con người xã hội nhờ đặc điểm tự nhiên của loài người phát triển đến trình độ cao mà có năng lực hoạt động lao động. Và chính "Lao động là điều kiện cơ bản đầu
File đính kèm:
- Giao ducNN.doc