Bài giảng Đọc hiểu văn bản: BUỔI HỌC CUỐI CÙNG (Chuyện của một em bé người An-Dát)

An-phông-xơ Đô-đê (1840- 1897) là nhà văn hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa lớn của nước Pháp ở nửa cuối thế kỉ XIX.

 

- Ông sinh tại Nim, tỉnh Lăng-gơ-đốc thuộc miền nam nước Pháp, trong một gia đình kinh doanh tơ lụa. Khi người cha bị phá sản, gia đình ông phải dời đến thành phố Li-ông. Cậu bé Đô-đê là một học sinh thông minh, rất ham mê đọc sách. Mười lăm tuổi, Đô-đê bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết.

 

- Tác phẩm đã xuất bản: Chú nhóc  (1886); Những lá thư viết từ cối xay gió (1869); Tác-ta-ranh xứ Ta-rax-công (1872), Tác-ta-ranh trên núi An-pơ (1885), Cảng Ta-rax-công (1890).

 

- Tác phẩm của An-phông-xơ Đô-đê thấm đẫm tinh thần nhân đạo và tinh tế, giàu chất thơ, nhiệt thành gửi gắm niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người.

 

ppt23 trang | Chia sẻ: oanhnguyen | Lượt xem: 1342 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Bài giảng Đọc hiểu văn bản: BUỔI HỌC CUỐI CÙNG (Chuyện của một em bé người An-Dát), để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tiếng mẹ đẻ Mơ hồ thấm từng âm thanh tiếng mẹ Tôi bỗng tỉnh ra. Tới giây phút lạ lùng Tôi chợt hiểu, người chữa tôi khỏi bệnh Chẳng thể là ai, ngoài tiếng mẹ thân thương Những tiếng khác dành cho dân tộc khác Cũng sẽ khiến cho lành bệnh bao người Tôi chỉ biết nếu tiếng tôi biến mất Thì tôi sẵn sàng nhắm mắt buông xuôi. (R.Gam-da-tốp) Tiết 93, 94: Đọc hiểu văn bản: BUỔI HỌC CUỐI CÙNG (Chuyện của một em bé người An-dát) An-phông-xơ Đô-đê. An-phông-xơ Đô-đê (1840- 1897) là nhà văn hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa lớn của nước Pháp ở nửa cuối thế kỉ XIX. - Ông sinh tại Nim, tỉnh Lăng-gơ-đốc thuộc miền nam nước Pháp, trong một gia đình kinh doanh tơ lụa. Khi người cha bị phá sản, gia đình ông phải dời đến thành phố Li-ông. Cậu bé Đô-đê là một học sinh thông minh, rất ham mê đọc sách. Mười lăm tuổi, Đô-đê bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết. - Tác phẩm đã xuất bản: Chú nhóc  (1886); Những lá thư viết từ cối xay gió (1869); Tác-ta-ranh xứ Ta-rax-công (1872), Tác-ta-ranh trên núi An-pơ (1885), Cảng Ta-rax-công (1890). - Tác phẩm của An-phông-xơ Đô-đê thấm đẫm tinh thần nhân đạo và tinh tế, giàu chất thơ, nhiệt thành gửi gắm niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người. Buổi học cuối cùng (nguyên văn tiếng Pháp: La dernière classe) là một truyện ngắn trong tuyển tập truyện Truyện kể ngày thứ hai của nhà văn Pháp Alphonse Daudet (An-phông-xơ Đô-đê). Câu chuyện được kể diễn ra tại lớp học ở một xã thuộc vùng An-dát của nước Pháp. Thời gian: sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (1870- 1871). Nước Pháp thua trận phải cắt vùng An-dát cho nước Phổ. Theo lệnh của chính quyền Phổ, trường học ở đây không được dạy tiếng Pháp nữa. “Buổi học cuối cùng” là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, chứ không phải là buổi học kết thúc niên học. Tác giả: - An-phông-xơ Đô-đê là nhà văn hiện thực lỗi lạc của nước Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Văn chương của ông nhẹ nhàng, trong sáng, diễn tả cảm động những nỗi đau và tình thương, đặc biệt là tình yêu quê hương, đất nước. 2. Tác phẩm: - Truyện ngắn “Buổi học cuối cùng” được sáng tác sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ (1870-1871). Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng An-dát. Các sự việc chính: - Trên đường đến trường, Phrăng thấy có những điều khác hẳn mọi ngày. - Vào lớp, Phrăng ngạc nhiên hơn khi thấy thầy Ha-men dịu dàng và ăn mặc chỉnh tề. - Không khí lớp học trang nghiêm. Cuối lớp có nhiều người lớn tuổi cũng đến học đầy đủ. - Khi biết đó là buổi học cuối cùng, Phrăng ân hận vì mình không thuộc bài và trước đây học hành không nghiêm túc. - Bài học cuối cùng thầy Ha-men giảng thật say sưa và xúc động. Thầy nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, Phrăng chăm chú nghe giảng và cảm thấy rất hiểu bài. - Kết thúc buổi học, thầy Ha-men nghẹn ngào không nói thành lời, thầy cố viết lên bảng dòng chữ thật to: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”. Phần1:Trước khi diễn ra BHCC Phần 2: Diễn biến buổi học cuối cùng Phần3:Cảnh kết thúc BHCC Nhân vật chính của truyện là ai? Ai là người kể chuyện? - Nhân vật chính: cậu bé Phrăng và thầy giáo Ha-men. - Người kể chuyện: cậu học trò Phrăng. Tại sao tác giả lại để cho cậu bé Phrăng giữ vai người kể chuyện? Việc lựa chọn Phrăng vào vai người kể chuyện đem đến những hiệu quả nghệ thuật nào? Câu chuyện qua lời kể của một cậu bé sẽ đảm bảo tính hồn nhiên, chân thực hơn. Cậu bé sẽ khong ngần ngại khi nói tới việc cậu định trốn học như thế nào, rồi cậu nhân lúc hỗn độn định trà trộn vào lớp học… Những chi tiết này góp phần khắc sâu tư tưởng chủ đề của truyện ở phần sau… Nếu để thầy Ha-men kể thì câu chuyện sẽ không gợi cảm bằng lời của cậu bé học trò, tư tưởng của truyện dễ biến thành bài học khô khan về lòng yêu nước. Để Phrăng kể, hình ảnh người thầy trở nên đẹp đẽ hơn và lòng yêu nước được bộc lộ sâu sắc hơn. a. Phrăng với quang cảnh hôm diễn ra buổi học cuối cùng: - Trên đường đến trường: nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị. - Ở trường: + Mọi sự bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật. + Lớp học trang trọng, thầy Ha-men dịu dàng, mặc đẹp hơn mọi ngày, mọi người trong làng đều đi học với vẻ buồn rầu… Khác lạ Yên tĩnh, trang nghiêm, khác thường. Nhận ra những dấu hiệu khác thường của một buổi học đặc biệt cậu bé nhạy cảm. b. Diễn biến tâm trạng của Phrăng trong buổi học cuối cùng: - Thái độ ban đầu đối với việc học tiếng Pháp: + Cậu rất ngại học những quy tắc về phân từ. + định trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. mải chơi Thái độ đối với việc học tiếng Pháp: + Định trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. + Phrăng choáng váng, sững sờ, hiểu ra nguyên nhân của sự khác lạ, tiếc nuối ân hận vì sự lười nhác học tập, ham chơi của mình. Thái độ đối với việc học tiếng Pháp: + Định trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. + Phrăng choáng váng, sững sờ, hiểu ra nguyên nhân của sự khác lạ, tiếc nuối ân hận vì sự lười nhác học tập, ham chơi của mình. + Xấu hổ và tự giận mình không chịu học các qui tắc phân từ. Thái độ đối với việc học tiếng Pháp: + Định trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. + Phrăng choáng váng, sững sờ, hiểu ra nguyên nhân của sự khác lạ, tiếc nuối ân hận vì sự lười nhác học tập, ham chơi của mình. + Xấu hổ và tự giận mình không chịu học các qui tắc phân từ. + Chăm chú nghe giảng, kinh ngạc thấy mình hiểu bài đến thế. “ Ôi ! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này !” Từ lơ là đến thiết tha, lo lắng cho việc học. Thái độ đối với việc học tiếng Pháp: + Định trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. + Phrăng choáng váng, sững sờ, hiểu ra nguyên nhân của sự khác lạ, tiếc nuối ân hận vì sự lười nhác học tập, ham chơi của mình. + Xấu hổ và tự giận mình không chịu học các qui tắc phân từ. + Chăm chú nghe giảng, kinh ngạc thấy mình hiểu bài đến thế. “Ôi ! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này !” Thái độ với thầy Ha-men: + Lẻn vào chỗ ngồi, đỏ mặt tía tai khi tai thấy thầy cầm thước. + Nhận ra giọng nói của thầy thật dịu dàng. Từ lơ là đến thiết tha, lo lắng cho việc học. Thái độ đối với việc học tiếng Pháp: + Định trốn học và rong chơi ngoài đồng nội. + Phrăng choáng váng, sững sờ, hiểu ra nguyên nhân của sự khác lạ, tiếc nuối ân hận vì sự lười nhác học tập, ham chơi của mình. + Xấu hổ và tự giận mình không chịu học các qui tắc phân từ. + Chăm chú nghe giảng, kinh ngạc thấy mình hiểu bài đến thế. “Ôi ! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này !” Thái độ với thầy Ha-men: + Lẻn vào chỗ ngồi, đỏ mặt tía tai khi tai thấy thầy cầm thước. + Nhận ra giọng nói của thầy thật dịu dàng. + Thấy tội nghiệp cho thầy, hiểu được lời khuyên của thầy, chưa bao giờ thấy thầy lớn lao đến thế. Nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí sâu sắc Phrăng là cậu bé hồn nhiên, chân thật, biết lẽ phải, yêu tiếng nói dân tộc, quý trọng và biết ơn thầy. Từ lơ là đến thiết tha, lo lắng cho việc học. Từ sợ hãi, thân thiết, quý trọng thầy. Thầy Ha-men : - Thầy ăn mặc bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng: áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu. - Thầy nói năng với học sinh dịu dàng, không giận dữ quát mắng. Thầy kiên nhẫn giảng bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo. - Thầy ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy coi tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa của chốn lao tù. - Buổi học kết thúc, thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy đã viết thật to lên bảng: “Nước Pháp muôn năm”.  Thầy Hamen là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc.  Câu nói của thầy Ha-men “… khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù…”.  Câu nói này khẳng định giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc. Còn giữ vững được tiếng nói là còn phương tiện để đấu tranh giành lại độc lập tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Yêu quý, học tập, giữ gìn tiếng nói của dân tộc là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước. Một số câu văn có sử dụng phép so sánh - Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố… - … dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hê-de, trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và những người khác nữa. - Chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù. - Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp.  - Chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức như thể cái đó cũng là tiếng Pháp…  Những so sánh này làm cho lời văn thêm tính hình tượng cụ thể, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt, biểu hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc. Ghi nhớ: Nghệ thuật: - Miêu tả nhân vật qua ý nghĩ, tâm trạng. - Ngôn ngữ chân thành, xúc động. Nội dung : Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng, Phrăng hiện lên là một chú bé hiếu động, thông minh, nhạy cảm, có tình yêu chân thành với người thầy, yêu nước sâu sắc. Hướng dẫn học ở nhà Yêu cầu: Tóm tắt truyện “Buổi học cuối cùng”. 3. Viết một đoạn văn nêu cảm nhận của em về cậu bé Phrăng. 4. Học, tìm hiểu cách viết, sử dụng các phương thức biểu đạt nhuần nhuyễn, tinh tế của tác giả. 5. Soạn tiếp tiết 2: Nhân vật thầy giáo Ha-men. Tóm tắt truyện: Phrăng là một cậu bé ham chơi lười học. Một lần, vì muộn học và chưa thuộc bài, cậu định bỏ học. Tuy nhiên, cậu đã cưỡng được ý muốn đó và chạy đến lớp. Đến nơi, cậu thấy lớp học thật khác lạ: mọi người vô cùng trật tự, ở cuối lớp có bà lão cầm quyển sách, thầy giáo Ha-men mặc rất đẹp. Thầy không mắng cậu vì lỗi đi học muộn mà còn rất dịu dàng với cậu. Vào lớp, thầy Ha- men công bố tin buồn: từ mai chỉ dạy tiếng Đức ở trường (vì trường nằm ở An- dát sau khi Pháp đại bại trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ) và đây là buổi học cuối cùng. Phrăng choáng váng. Cậu không thể thuộc nổi một quy tắc về phân từ, thầy Ha-men không trách cậu mà tự dằn vặt, trách cứ mình. Suốt buổi học, cậu chăm chú nghe giảng và cảm thấy hối hận vì khoảng thời gian trước đây mình đã không chú ý vào việc học. Thầy Hamel bắt đầu giảng về tiếng Pháp, cậu kinh ngạc khi thấy mình hiểu bài đến thế, cậu thấy thầy thật lớn lao. Hết buổi học, mặt thầy Ha-men tái đi. Thấy cố viết thật to, giằn mạnh hết sức câu: NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM! Thầy xúc động không nói nên lời, đành phải ra hiệu cho mọi người kết thúc buổi học.

File đính kèm:

  • pptbuoi hoc cuoi cung oanh.ppt
Giáo án liên quan