Đề tài Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay – Thực trạng và phương hướng giải quyết

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nước ta chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tăng trưởng khá, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều, đời sống của các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, thế và lực của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế

doc22 trang | Chia sẻ: quynhsim | Lượt xem: 425 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay – Thực trạng và phương hướng giải quyết, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nước ta chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng: giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tăng trưởng khá, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều, đời sống của các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện, tình hình chính trị – xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường, thế và lực của nước ta được nâng cao trên trường quốc tế Tuy nhiên trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn có nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết như: sự phân hoá giàu nghèo có xu hướng gia tăng, nạn thất nghiệp vẫn còn chưa được giải quyết, vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập Đây là những vấn đề vừa cấp bách vừa thường xuyên, lâu dài và cũng là vấn đề quan trọng nhất trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta. Vì vậy, nước ta cần tìm giải pháp để giải quyết những mâu thuẫn trên một cách triệt để nhằm xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày một hoàn thiện hơn. Chính vì vậy trong quá trình học môn Triết học Mác – Lênin em đã chọn đề tài: “Những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay – Thực trạng và phương hướng giải quyết” để viết tiểu luận. Tuy nhiên do trình độ hiểu biết và thời gian tìm hiểu môn học còn hạn chế nên bài tiểu luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự góp ý của thầy giáo và các bạn để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Mai Xuân Hợi đã giúp đỡ em trong quá trình tìm hiểu môn học Triết học Mác – Lênin và thực hiện đề tài này. Nội dung chi tiết Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sự cần thiết khách quan: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất. Theo C.Mác, sản xuất và lưu thông hàng hoá là hiện tượng vốn có của nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá cũng như các trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là: Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Đó là: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá tiền tệ. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. mặt khác các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi này phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy nền kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan, thì không thể lấy ý chí chủ quan mà xoá bỏ nó được. 3. Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang nặng tính tự túc, tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất. Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng xuất lao động xã hội. Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó, kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ. Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá, đến lượt nó sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngữ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua. Trình độ phát triển của kinh tế thị trường có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát triển cuả lực lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hoá phát triển qua ba giai đoạn tương ứng với ba giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất: sản xuất hàng hoá giản đơn, kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại. Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế hàng hoá. Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa(nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Hiện nay, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật chất - kỹ thuật của nó còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh tế ít nhiều còn mang tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên, nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển của các nước đi trước: kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển lên kinh tế thị trường tự do, rồi từ kinh tế thị trường tự do chuyển lên kinh tế thị trường hiện đại, mà cần phải và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, trong một thời gian tương đối ngắn xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại để nền kinh tế nước ta bắt kịp với trình độ phát triển chung của thế giới; đồng thời phải hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. II. Thực trạng và các mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.1 Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Đó là do các nguyên nhân: Cơ sở vật chất – kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới (năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới). Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ đường giao thông /km bằng 1% với mức trung bình của thế giới; tốc độ truyền thông trung bình của cả nước chậm hơn thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau. Do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh. Do cơ sở vật chất – kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động thấp, do đó khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, chất lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu. 1.2 Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Do giao thông vân tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn còn làm rối loạn thị trường) Thị trường hàng hoá sức lao động vẫn còn manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng khủng hoảng. nét nổi bật của thị trường này là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều “hàng hoá” để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ đIều kiện tham gia thị trường này. 1.3 Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường: do vậy nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến. 1.4 Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác. Toàn cầu hoá và khu vực hoávề kinh tế đang đặt ra chung cho các nước cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan nên không đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? phải chủ động hội nhập, chuẩn bị tốt để chủ động tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá, tìm ra “cái mạnh tương đối” của nước ta, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá kinh tế đối ngoại, tận dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội. 1.5 Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận định về vấn đề này như sau: “Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém; thủ tục hành chính đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy kiềm chế được nhưng còn chưa vững chắc”(1) [3,66] . 2. Những mâu thuẫn chủ yếu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ một nước phong kiến đi lên bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Điều đó đòi hỏi nhà nước ta phải có những biện pháp phù hợp để phát triển nền kinh tế thị trường nhưng vẫn giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước đây để xây dựng nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy đã làm kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Khi đất nước ta hoàn toàn thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã xác định nước ta sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Nhưng lúc đó chúng ta còn nhận thức đơn giản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nên chúng ta đã coi chủ nghĩa xã hội là một nhà nước của dân và do dân làm chủ, xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nên đã thiết lập nên một nền kinh tế mà chỉ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Do đó đã tạo nên một nền kinh tế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Hậu quả là cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ lại vào cấp trên vì không bị ràng buộc với kết quả sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó bộ máy quản lý cồng kềnh làm triệt đi tính năng động sáng tạo của các đơn vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội. Khi đó chủ yếu phát triển kinh tế theo chiều rộng chứ không phải phát triển kinh tế theo chiều sâu. Vì vậy, tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, Đảng ta đã đề ra phương hướng đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Như vậy chấp nhận nền kinh tế thị trường là chúng ta chấp nhận sự mâu thuẫn của nó với tính định hướng xã hội chủ nghĩa vì nền kinh tế thị trường gồm có nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu và do đó cũng có nhiều hình thức phân phối. Sự phức tạp và đa dạng của nền kinh tế thị trường làm cho định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng khó khăn và đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Mỗi thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ có bản chất kinh tế xã hội riêng, nên bên cạnh sự thống nhất của các thành phần kinh tế, còn có những khác biệt và mâu thuẫn khiến cho nền kinh tế thị trường nước ta phát triển theo những phương hướng khác nhau. Chẳng hạn các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu tuy có vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, nhưng vì dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, nên chúng không tránh khỏi tính tự phát chạy theo lợi nhuận đơn thuần, nảy sinh những hiện tượng tiêu cực làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, thành phần kinh tế nhà nước phải được xây dựng và phát triển có hiệu quả để thực hiện tốt vai trò của mình; đồng thời Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý vỹ mô kinh tế – xã hội để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với giải quyết công ăn việc làm Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa các chính sách xã hội cũng được đổi mới, điều chỉnh và sửa đổi liên tục theo hướng huy động mọi nguồn lực trong xã hội bao gồm nhà nước, cộng đồng và người dân cùng thực hiện. Một trong các chính sách quan trọng đó là vấn đề giải quyết công ăn việc làm. Phát triển nền kinh tế thị trường tức là đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động và tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Đồng thời phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân để tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Như vậy khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển và được ứng dụng vào quá trình sản xuất thì sự thay thế con người bằng máy móc diễn ra càng nhanh. Cùng với sự gia tăng dân số thì số người thất nghiệp hàng năm là hết sức trầm trọng. Thất nghiệp là nguy cơ dẫn đến nghèo đói và các tệ nạn xã hội khác. Đối với người lao động, thiếu hoặc không có việc làm là một nguy cơ dẫn đến thu nhập thấp hoặc không có thu nhập. Mặt khác nó không chỉ tước mất quyền bình đẳng được làm việc của người lao động để phát huy năng lực, mà còn vừa không có thu nhập bảo đảm cho cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. Bởi vậy, Nhà nước phải có chính sách giải quyết việc làm, tạo sự bình đẳng về quyền lao động và thu nhập. Đại hội Đảng VIII đã khẳng định “bảo đảm công ăn việc làm cho dân là một mục tiêu xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên”(1) [3, 99] . Cùng với Bộ luật lao động, Chính phủ đã ban hành các nghị định và thông tư để tạo ra cơ sở pháp lý cho quan hệ lao động trong cơ chế thị trường, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, tạo việc làm. Nhờ có các chính sách đúng đắn và sự tham gia tích cực của các tổ chức và nhân dân, nên việc giải quyết việc làm đã có những chuyển biến tích cực, số người có việc làm đã tăng lên đáng kể. Qua cải cách hành chính và xắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, lao động trong khu vực nhà nước giảm từ 14,7% năm 1991 xuống còn 9% năm 2000, khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể thu hút khoảng 90%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 33 vạn lao động. Điều đó cho thấy việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã góp phần rất lớn vào việc giải quyết công ăn việc làm. Tuy nhiên từ năm 2001 đến nay tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nhà nước có xu hướng tăng trở lại. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị được thể hiện qua bảng số liệu sau: Đơn vị: % Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 Cả nước 6,44 6,25 6,01 5,78 A. Phân theo vùng Đồng bằng sông Hồng 7,34 7,07 6,64 6,37 Đông Bắc 6,49 6,73 6,10 5,94 Tây Bắc 6,02 5,62 5,11 4,19 Bắc Trung Bộ 6,87 6,72 5,82 5,45 Duyên hảI Nam Trung Bộ 6,31 6,16 5,49 5,46 Tây Nguyên 5,16 5,55 4,92 4,39 Đông Nam Bộ 6,20 5,92 6,31 6,08 Đồng Bằng Sông Cửu Long 6,15 6,08 5,52 5,26 B. Một số thành phố lớn Tp. Hà Nội 7,95 7,39 7,08 6,84 Tp. Đà Nẵng 5,95 5,54 5,30 5,16 Tp. Hồ Chí Minh 6,48 6,04 6,73 6,58 Nguồn: niên giám thống kê (tóm tắt) 2003, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004, trang 13. Bên cạnh một số kết quả đã đạt được trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động thì vẫn còn những hạn chế cần được giải quyết. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn cao. Cơ cấu và chất lượng chuyển dịch lao động còn chậm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp (20%), năng suất lao động không cao. Còn thiếu những chính sách chưa đủ mạnh để khuyến khích đầu tư, khai thác, huy động các nguồn lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. Việc thực hiện mục tiêu quốc gia về giải quyết việc làm ở một số địa phương còn lúng túng; việc giải ngân quỹ quốc gia về hỗ trợ việc làm còn chậm, hiệu quả một số dự án tạo việc làm còn thấp. Đây là những tồn tại cần phải khắc phục để giải quyết triệt để vấn đề việc làm cho người lao động. 2.3 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với sự phân hoá giàu nghèo. Nền kinh tế thị trường phát triển, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội nhưng không vì vậy mà đời sống của nhân dân được nâng cao và ổn định. Trái lại cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng diễn ra sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội theo mức sống ngày càng tăng. Năm 1993, theo kết quả đIều tra giàu nghèo của 91732 hộ trên phạm vi cả nước, tính chung khoảng cách chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo là 6,2 lần. Các năm 1994, 1995, 1996, Tổng cục thống kê đã tiến hành điều tra hộ gia đình đa mục tiêu với cỡ mẫu 4,5 vạn hộ và năm 1999 đIều tra 2,5 vạn hộ đại diện cho cả nước, 7 vùng sinh thái, khu vực thành thị, nông thôn, thì chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo là 6,5 lần năm 1994, 7 lần năm 1995, 7,3 lần năm 1996 và 8,9 lần năm 1999. như vậy hệ số chênh lệch thu nhập giữa nhóm hộ giàu và hộ nghèo tăng dần qua các năm trên phạm vi cả nước cũng như trong từng vùng. Bảng so sánh nhóm thu nhập cao nhất và nhóm thu nhập thấp nhất, mỗi nhóm 20% số hộ điều tra Đơn vị: lần Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1999 Toàn quốc 6,5 7,0 7,3 8,9 1. Chia theo khu vực: - Thành thị 7,0 7,7 8,0 9,8 - Nông thôn 5,4 5,8 6,1 6,3 2. Chia theo vùng: - Tây Bắc và Đông Bắc 5,2 5,7 6,1 6,8 - Đồng bằng sông Hồng 5,6 6,1 6,6 7,0 - Bắc Trung Bộ 5,2 5,7 5,9 6,9 - Duyên hảI Nam Trung Bộ 4,9 5,5 5,7 6,3 - Tây Nguyên 10,1 12,7 12,8 12,9 - Đông Nam Bộ 7,4 7,6 7,9 10,3 - Đồng bằng sông Cửu Long 6,1 6,4 6,4 7,9 Nguồn: Tổng cục thống kê: số liệu về sự chuyển biến xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000. Sự phân hoá giàu nghèo ngày càng dãn rộng sẽ lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, nhà ở và các dịch vụ cơ bản khác Điều đó đưa đến hệ quả không mong muốn, làm xuất hiện những nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường, tác động đến tư tưởng, tâm lý, niềm tin về công bằng xã hội. Vì thế, cần tăng cường vai trò của nhà nước đối với phân phối thu nhập nhằm từng bước thực hiện mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.4 Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế thị trường với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái Nền kinh tế ngày càng phát triển, đặc biệt là các ngành công nghiệp đã làm cho môi trường ngày càng ô nhiễm. Trong suốt những năm qua, con người đã thường xuyên tác động trực tiếp tới thiên nhiên và cải biến môi trường sống. Con người đã khai thác than đá, sắt, và các kim loại khác, nắn dòng sông, đào kênh, bạt núi, xây dựng các trạm thuỷ điện với các hồ chứa nước nhân tạo những hoạt động đó đã ảnh hưởng tới khí hậu, từ đó tác động mạnh tới sinh quyển. Trước đây, ở nước ta có 3/4 diện tích đất đai là rừng, nay chỉ còn 1/4 là rừng. Nhiều loại gỗ quý như gụ, lát hoa, giáng hương, sến, táu đã bị khai thác đến mức gần như cạn kiệt. Rừng bị triệt hạ nhiều làm cho lượng ôxi trong không khí và lượng chất hữu cơ sản sinh bị giảm sút rõ rệt. Lượng nước dự trữ do rừng giữ lại ngày càng ít dần, làm cho quá trình sa mạc hoá và thảo nguyên hoá càng tăng nhanh. Quá trình đô thị hoá nhanh làm cho diện tích đất trồng ngày càng bị thu hẹp. Sự phân phối nước ngọt cho người và cho vật nuôi, cây trồng cũng bị hạn chế. Tiến bộ khoa học kĩ thuật được ứng dụng tích cực vào sản xuất đã kéo theo sự nhiễm bẩn của tất cả các quyển. Các chất thải của nhà máy làm cho các hồ ao, sông ngòi, cửa biển, cảng và biển cả bị nhiễm bẩn ngày càng nhiều. Các tầu biển đã thải ra biển và đại dương nhiều chất thải độc hại, làm chết nhiều sinh vật nổi và những sinh vật khác ăn sinh vật nổi cũng chết theo Những khí thải c

File đính kèm:

  • docNhững mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở VN 2.doc
Giáo án liên quan